Gà Mía Sinh Sản / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Raffles-design.edu.vn

Quy Trình Chọn Giống Và Chăn Nuôi Gà Mía Sinh Sản

I. PHẠM VI ÁP DỤNG

Quy trình này được áp dụng cho các cơ sở trang trại và gia trại

II. QUY TRÌNH CHỌN GIỐNG CÁC GIAI ĐOẠN

2.1. Chọn giống giai đoạn gà con 01 ngày tuổi

2.1.1. Cân xác định khối lượng trung bình

– Cân mẫu 50 con và cân riêng từng con, sau đó tính khối lượng trung bình của 1 con

– Chọn lấy gà con có khối lượng cho phép sai lệch trên dưới không quá 15% so với khối lượng trung bình để đưa vào nuôi.

2.1.2. Ngoại hình tiêu chuẩn gà con 01 ngày tuổi cần chọn

– Gà con có màu lông toàn thân màu trắng đục, lông trên thân bông xốp

– Mỏ và da chân màu hồng, mỏ thẳng, chân mập và da chân bóng

– Mắt sáng mở to, đi lại nhanh nhẹn, rốn kín

2.1.3. Tỷ lệ chọn giống: Có thể áp dụng đến 90% nếu gà con đạt tiêu chuẩn khối lượng và ngoại hình

2.1.4. Đánh số: Gà con sau khi chọn giống sau sẽ được đánh số theo thú tự lần lượt, số bằng thẻ nhôm được quấn lỏng vào ống chân

2.2. Chọn giống giai đoạn 8 tuần tuổi (chọn gà vào nuôi hậu bị)

2.2.1. Cân xác định khối lượng trung bình

– Cân gà mái và gà trống riêng

– Cân mẫu 50 con và cân riêng từng con, sau đó tính khối lượng trung bình của 1 con

– Chọn lấy gà mái có khối lượng cho phép sai lệch trên dưới không quá 10% so với khối lượng trung bình, gà trống có khối lượng đạt tiêu chuẩn trung bình hoặc sai lệch không quá 3% so với khối lượng trung bình

2.2.2. Ngoại hình tiêu chuẩn gà cần chọn

– Chọn giống gà mái: Gà chưa phủ kín lông toàn thân, mới chỉ có lông cánh, lông đầu, lông cổ. Chọn lấy con có lông cánh màu nâu xám lá chuối khô ép sát thân, chân cao vừa phải da chân bóng có màu vàng nhạt, mỏ ngắn, mắt sáng,

– Chọn giống gà trống: Gà chưa phủ kín lông toàn thân, mới chỉ có lông cánh, lông đầu, lông cổ. Chọn lấy con có lông cánh màu đỏ thẫm mận chín ép sát thân, chân cao vừa phải da chân bóng có màu vàng nhạt, mỏ ngắn, mắt sáng, đã nhú mào rõ

2.2.3. Tỷ lệ chọn: Căn cứ vào khoảng chọn lọc khối lượng đã xác định, chọn theo nguyên tắc từ trên xuống dưới cho đến khi nào đủ số lượng gà mái và gà trống theo yêu cầu. Tuy nhiên giai đoạn này cần chọn với áp lực cao. Cụ thể gà mái chọn lấy số lượng có tỷ lệ không vượt quá 70%, gà trống chọn với tỷ lệ không vượt quá 15% so với tổng dàn

2.2.4. Gắn số: Gà sau khi được chọn giống xong sẽ chuyển vị trí đeo số từ số chân về đeo vào số cánh và được phân nuôi vào các chuồng riêng

2.3. Chọn giống giai đoạn 20 tuần tuổi (chọn gà vào sinh sản)

2.3.1. Cân xác định khối lượng trung bình

– Cân gà mái và gà trống riêng

– Cân mẫu 50 con và cân riêng từng con, sau đó tính khối lượng trung bình của 1 con

– Chọn lấy gà mái có khối lượng cho phép sai lệch trên dưới không quá 15% so với khối lượng trung bình, gà trống có khối lượng đạt tiêu chuẩn trung bình hoặc sai lệch không quá 10% so với khối lượng trung bình

2.3.2. Ngoại hình tiêu chuẩn gà cần chọn

– Chọn giống gà mái: Gà đã phủ kín lông toàn thân. Chọn lấy con có lông toàn thân màu nâu xám lá chuối khô ép sát thân và mượt bóng, chân cao vừa phải da chân bóng có màu vàng nhạt, mỏ ngắn, mắt sáng, đầu rộng và sâu vừa phải, mào nhô cao màu đỏ tươi. Khoảng cách giữa 2 mỏm xương khum rộng lọt 2 ngón tay và khoảng cách từ điểm cuối xương lưỡi hái đến mỏm xương khum rộng lọt 3 ngón tay. Da bụng mềm, lỗ huyệt hồng

– Chọn giống gà trống: Gà phủ kín lông toàn thân. Chọn lấy con có lông trên thân màu đỏ thẫm mận chín bóng mượt, lông cổ đỏ đậm, lông cánh xanh biếc ép sát thân, lông đuôi dài, đùi to, ngục nở, chân thẳng cao vừa phải, ngón chân thẳng, da chân bóng có màu vàng nhạt, đầu to, mỏ ngắn, mắt sáng, mào đỏ tươi thẳng đứng, tích tai to màu đỏ,

2.3.3. Tỷ lệ chọn: Chọn theo phương pháp bình ổn về khối lượng cơ thể với áp lực chọn lọc thấp, tỷ lệ chọn giống cao. Gà mái có thể chọn tỷ lệ từ 80-90%, gà trống chọn lấy tỷ lệ từ 70 – 80% theo yêu cầu số lượng

2.4. Chọn giống giai đoạn 38 tuần tuổi (chọn gà bố mẹ để thu trứng ấp thay thế đàn)

2.4.1. Thời điểm bắt đầu chọn giống: Chọn giống bắt đầu khi gà đạt 36 tuần tuổi

2.4.2. Chọn gà mái:

– Chọn những gà máí đạt tiêu chuẩn sau: Mắt sáng, nhanh nhẹn. Mào tươi, da bụng mềm, lỗ huyệt ướt mấp máy

– Loại bỏ khỏi đàn những gà có đặc điểm ngoại hình sau: Lông xơ, mào rụt, ấp bóng, da bụng cứng, thân mình gầy, lỗ huyệt khô và những con có biểu hiện thay lông

2.4.3. Chọn gà trống: Chọn lấy nhưng con dáng hùng dũng, lông mượt bóng, mào đứng to tươi đỏ, mắt sáng, tiếng gáy to vang, lông đuôi dài, đạp mái tốt

2.4.4. Ghép trống mái phối giống: Tỷ lệ ghép trống mái là 1/8 và cần để dành 5% gà trống dự trữ

III. KHỬ TRÙNG CHUỒNG VÀ DỤNG CỤ TRƯỚC KHI NUÔI GÀ

3.1. Sau mỗi đợt nuôi cần dọn dẹp, vệ sinh tiêu độc sát trùng chuồng trại, sau khi làm sạch cẩn thận mới đưa gà vào nuôi lứa mới

3.2. Tám bước làm mới lại chuồng sau mỗi đợt nuôi gà

1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Đóng kín bạt che chuồng và cửa ra vào, ủ chuồng trong thời gian từ 10 ngày đến 30 ngày, sau đó mới được nuôi lứa mới Phun sát trùng toàn bộ chuồng và dụng cụ chăn nuôi, bạt che Quét vôi toàn bộ nền chuồng, tường bao, lối đi hành lang Sửa chữa nền chuồng những chỗ bị hỏng và để khô Rửa sạch nền chuồng vách ngăn, bạt che không được để cặn phân dính trên tường và trên nền Quét mạng nhện trong chuồng và khu vực xung quanh chuồng Tháo dỡ dụng cụ chăn nuôi đem ngâm và rửa kỹ bằng nước sạch Dọn chất thải, độn lót chuồng đưa ra ngoài xa để ủ nhiệt sinh học

3.3. Trước khi nhận gà vào nuôi 1 ngày cần phun sát trùng tiêu độc lại toàn bộ khu nuôi gà con và các dụng cụ bằng hóa chất sát trùng như Haniodine, hoặc Chloramin, VikonS 1% (100g pha loãng với 10 lit nước để phun), sau đó mở bạt để thoáng chuồng cho bay hết mùi rồi mới đưa gà vào

3.4. Rửa sạch bể chứa nước và sát trùng, sau đó đóng kín nắp và cấp nước dự trữ dùng cho gà uống

3.5. Người nuôi gà phải có quần áo riêng và ủng sạch để thay khi vào chuồng nuôi

IV. QUY TRÌNH CHĂN NUÔI GÀ CON, GÀ DÒ GIAI ĐOẠN 0-8 TUẦN TUỔI

4.1. Chuẩn bị các dụng cụ chăn nuôi

4.1.1 Rèm che: Rèm che bằng vải bạt hoặc bao tải dứa tận dụng may lại phù hợp với diện tích cần dùng

4.1.2. Chất độn chuồng: Dùng bằng trấu sạch và khô

4.1.3. Hố sát trùng được xây vỉa trước cửa ra vào. Có thể là khay sát trùng làm bằng tôn đựng thuốc sát trùng để nhúng ủng trước khi vào chuồng. Chất sát trùng là vôi bột hoặc các hóa chất sử dụng theo hướng dẫn của nơi sản xuất Một ngày trước khi nhận gà, chất sát trùng phải cho vào hố sát trùng hoặc khay sát trùng

4.1.4. Quây úm gà: Làm bằng cót ép cắt dọc có chiều cao 50cm, khi quây tròn lại có đường kính 2m có thể úm được 200 gà

4.1.5. Chụp sưởi: Làm bằng tôn đường kính rộng 80-100cm, bên trong lắp 3 bóng điện xen kẽ nhau. Những nơi không có điện hoặc nguồn điện thất thường có thể dùng bếp than nhưng khi sưởi cần thiết kế để đưa khí than ra ngoài

4.1.6. Máng uống:

– Sử dụng máng uống gallon chuyên dụng cho gà con định mức 50 con cho 1 máng. Máng uống khi đặt xen kẽ với khay ăn(hoặc máng ăn) theo hình rẻ quạt trong quây và cách đều giữa thành quây với chụp sưởi

4.1.7. Máng ăn: Trong 2 tuần đầu dùng khay ăn(khay bằng tôn hoặc bằng nhựa có kích thước 70 × 60cm) hoặc có thể dùng mẹt tre đường kính 60cm. Khay ăn được đặt trong quây xếp so le với máng uống. Các tuần sau dùng máng ăn P30 và P50

4.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà con, gà dò từ 0-8 tuần tuổi

4.2.1. Trước khi nhận gà vào quây phải

– Kéo rèm che kín chuồng

– Bật đèn sưởi ấm trong quây úm khoảng 2 giờ nếu thời tiết ngoài trời lạnh

– Cho nước vào máng uống. Trong nước uống cần pha thêm thuốc kháng sinh, Bcomplex, và đường Glucoz theo hướng dẫn. Nước uống phải là nước sạch, an toàn và có thể đun nước cho ấm nếu úm gà vào mùa lạnh. Nước uống được cho vào máng gallon loại 1,5-2lit, đáy máng uống được kê phẳng bằng gạch mỏng đặt trên đệm lót

4.2.2. Khi thả gà vào quây thực hiện tuần tự các công việc sau

Kiểm soát nhiệt độ trong giai đoạn nuôi.

– Kiểm tra lại số lượng con sống và con chết

– Loại bỏ những con chết và gà không đạt tiêu chuẩn ra khỏi chuồng

4.2.3. Nhận gà con vào quây

– Sau khi chuẩn bị xong chuồng trại mới đưa gà vào quây

– Mật độ nuôi từ tuần thứ nhất đến tuần thứ ba là 20con – 18 con/m2 chuồng, từ tuần thứ tư đến tuần thứ sáu là 16con – 14 con/m2 chuồng, từ tuần thứ bảy đến tuần thứ chín là 12con đến 10con/m2 chuồng

4.2.4. Đưa ra khỏi chuồng úm các vỏ hộp đựng gà con, các chất lót vỏ hộp và gà con chết, gà loại để tiêu hủy

4.2.5. Cho gà uống nước ngay trước khi cho ăn.

4.2.6. Khung nhiệt sưởi ấm cho gà như sau

Trong hai tuần đầu úm gà thường xuyên quan sát gà và theo dõi nhiệt độ trong quây để điều chỉnh thiết bị sưởi nhằm cung cấp đủ nhiệt cho gà. Những dấu hiệu sau cần chú ý để điều chỉnh chụp sưởi hoặc thiết bị sưởi

– Nhiệt độ cao, đàn gà tản ra sát vành quây, kêu và thở

– Nhiệt độ thấp gà tập chung quanh chụp sưởi

– Nhiệt độ thích hợp đàn gà phân bố đều trong quây

4.2.7 Cho ăn

– Từ tuần thứ nhất đến tuần thứ ba dùng thức ăn gà con chủng loại 1-21. Từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8 dùng thức ăn gà dò chủng loại 21-42 ngày. Nếu tự chế biến phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ghi trong bảng 2

– Khi chuyển thức ăn từ thức ăn gà con sang thức ăn gà dò, công thức thay đổi cho gà ăn như sau

+ Ngày thứ nhất 75% thức ăn cũ và 25% thức ăn mới

+ Ngày thứ hai 50% thức ăn cũ và 50% thức ăn mới

+ Ngày thứ ba 25% thức ăn cũ và 75% thức ăn mới

+ Ngày thứ tư cho ăn 100% thức ăn mới

– Tuần thứ nhất đến hết tuần thứ hai cho gà ăn bằng khay hoặc mẹt(100 gà đặt 1 khay ăn). Rải mỏng, đều thức ăn lên khay ăn hoặc mẹt độ dầy 1cm, sau đó từ 2-3 giờ cạo sạch thức ăn lẫn phân có trong khay đem sàng để gạt bỏ phân ra ngoài, tận thu thức ăn cũ và tiếp thêm lượt mỏng thức ăn mới

– Khi gà được 3 tuần tuổi trở đi thay thế khay ăn bằng máng ăn cỡ trung bình P30 hoặc máng đại P50(40 -50con/máng), cần treo máng bằng dây, miệng máng đặt ngang với lưng gà

– Cho gà ăn tự do cả ngày đêm, bổ sung thêm thức ăn cho gà trong một ngày đêm từ 6-7 lần

4.2.8. Cho uống

– Dùng máng uống gallon, hai tuần đầu dùng máng cỡ 1,5-2,0lit, các tuần sau dùng máng cỡ 4,0lit

– Máng uống được rửa sạch hàng ngày và thay nước uống cho gà khoảng 4 lần(sáng, chiều, tối, và giữa đêm)

4.2.9. Chiếu sáng: Thời gian chiếu sáng đảm bảo 24/24 giờ đến tuần thứ 3 hoặc thứ 4, các tuần còn lại thắp sáng đến 22 giờ, cường độ chiếu sáng từ 5-10lux tương đương 2-4w/m2 chuồng

4.2.10. Trong hai tuần đầu rèm che phải đóng kín cả ngày đêm, từ tuần thứ ba trở đi đóng rèm phía hướng gió và mở rèm phía không có gió. Tuy nhiên việc đóng và mở rèm còn tùy thuộc vào thời tiết và sức khỏe đàn gà

4.2.11. Độn lót chuồng: Hàng ngày kiểm tra và dọn rìa xung quanh máng uống độn chuồng bị ướt, xới đảo độn lót chuồng từ 7-10 ngày/lần và bổ sung thêm lượt mỏng độn lót. Không thay độn lót chuồng thương xuyên

4.2.12. Từ tuần thứ 2 trở đi bắt đầu nới rộng quây úm và đến tuần thứ tư trở đi tháo bỏ hoàn toàn quây úm

4.2.13. Hàng ngày kiểm tra gà chết và gà yếu để loại thải. Ghi chép đầy đủ số lượng gà có mặt hàng ngày, lượng thức ăn cho ăn vào biểu theo dõi

4.2.14: Phương thức nuôi: Theo phương thức bán chăn thả

– Từ 01 đến 6 tuần tuổi nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng

– Từ 7 đến 8 tuần tuổi có thể thả gà ra vườn. Mật độ thả 0,5m2/con. Vườn thả thiết kế bằng phẳng, có trồng cây hoặc dàn cây che mát. Chu vi vườn thả được rào lưới cáo đảm bảo gà không thể bay qua hoặc chui ra ngoài. Chỉ thả gà khi thời tiết khô và ấm, thời tiết bất thuận(sau mưa, lạnh ẩm dài ngày phải nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng với mật độ 10 con/m2)

– Tuyệt đối không thả gà ngoài vườn trong đêm, đưa gà vào nuôi tại chuồng

V. QUY TRÌNH CHĂN NUÔI GÀ HẬU BỊ VÀ GÀ ĐẺ

5.1. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng chăn nuôi

5.1.1.Rèm che: Dùng bằng vải bạt, hoặc vỏ bao tận dụng may lại

5.1.2. Hố sát trùng: Xây vỉa trước cửa ra vào kích thước 50 × 70 ×10cm

5.1.3. Máng uống: Dùng máng uống gallon loại 8 lít(100 gà có 2 máng) hoặc máng tôn dài 1,2m(100 gà có 1 máng)

5.1.4. Máng ăn: Dùng máng đại P50, nuôi gà giai đoạn từ 9-20 tuần tuổi bố trí 15 con đến 17con/máng. Nuôi gà đẻ 25con/máng

5.1.5. Ổ đẻ tính theo 5 con/ổ. Nên đóng ổ 2 tầng, mỗi tầng có 3 ngăn theo kích thước 35 × 35 × 35cm

5.1.6. Chuồng nuôi gà dò và gà đẻ có thể là chuồng chung hoặc chuồng riêng, trước khi đưa gà vào nuôi công tác vệ sinh sát trùng làm đúng như mục khử trùng chuồng nuôi

5.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà hậu bị từ 9-20 tuần tuổi

5.2.1. Kéo rèm che mở hoàn toàn. Chỉ đóng rèm khi có gió to, trời giông bão, mưa to, quá lạnh và đàn gà bị bệnh đường hô hấp

5.2.2. Mật độ nuôi đảm bảo từ 10con đến 8con/ m2 chuồng tùy theo lứa tuổi gà

5.2.3. Cho gà ăn theo cách sau

– Dùng thức ăn gà hậu bị thức ăn hỗn hợp viên, nếu thức ăn tự chế biến phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của gà như ghi trong bảng 2 của quy trình

– Cho gà ăn bằng máng đại P50,. Máng được treo bằng dây, miệng máng cao ngang lưng gà. Mật độ máng ăn cho gà theo yêu cầu: 17con- 15 con/máng. Cho gà ăn hạn chế theo định lượng hàng tuần quy định

– Khi phân phối thức ăn vào máng cần đổ đều lượng, không cho máng có nhiều, máng có ít thức ăn

– Lượng ăn của gà được điều chỉnh hàng tuần sau khi có kết quả kiểm tra khối lượng cơ thể gà hàng tuần

5.2.4. Cân gà kiểm tra khối lượng

– Hàng tuần cân gà vào 1 ngày cố định(dùng cân đồng hồ để cân), cân gà trước khi cho ăn, số gà cân bằng 10% số gà có mặt trong chuồng, cân từng con, sau đó tính khối lượng trung bình. Khối lượng trung bình có được sẽ làm cơ sở để so sánh với khối lượng tiêu chuẩn tại cùng thời điểm để đưa ra mức ăn hợp lý của tuần kế tiếp

5.2.5. Cho gà uống theo cách sau

– Dùng máng uống gallon cỡ 8lit hoặc cho uống máng dài (loại máng dài 1,2m bằng tôn được đặt trên rãnh thoát nước), máng uống dài cần phải có chụp bằng song sắt để gà không nhảy vào máng

– Máng uống đặt số lượng 100 con cho 2 máng uống gallon và 100con cho 1 máng uống dài

– Máng uống rửa sạch hàng ngày thay nước uống 2 lần(sáng, chiều)

5.2.6. Chiếu sáng: Ngừng cung cấp điện chiếu sáng ban đêm, chỉ sử dụng ánh sáng tự nhiên ban ngày

5.2.7. Độn lót chuồng: Hàng ngày kiểm tra và dọn rìa xung quanh máng uống độn chuồng bị ướt, xới đảo độn lót chuồng từ 7-10 ngày/lần và bổ sung thêm

5.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà đẻ từ 21 tuần trở đi

5.3.1.Mật độ nuôi đảm bảo từ 4con đến 4,5con/ m2 chuồng

5.3.2. Chiếu sáng: Cần thực hiện đúng theo các bước sau

– Kích thích chiếu sáng sẽ bắt đầu vào tuần tuổi thứ 20, bình quân mỗi tuần tăng thêm 1giờ để đạt được 14 giờ trong ngày

– Cường độ chiếu sáng đạt 10lux tức là 3-4W/m2, khoảng cách bóng đèn từ 3m đến 4m lắp 1bóng với công suất từ 40-60w

– Duy trì cố định thời gian chiếu sáng, không thay đổi tùy tiện thời gian chiếu sáng

5.3.3. Ổ đẻ xếp cạnh tường chuồng với chiều cao thích hợp 40cm, được đặt ở chỗ mát. Ổ thường xuyên được lót trấu sạch,

5.3.4. Chuồng nuôi để thông thoáng hoàn toàn, chỉ kéo rèm che khi có giông bão, mưa to tạt nước vào chuồng. Khi trời lạnh chỉ kéo bạt che nơi có gió thổi trực tiếp vào chuồng

5.3.5. Cho ăn

– Khi gà bước vào nuôi tuần tuổi thứ 20 chuyển thức ăn và cho ăn thức ăn gà đẻ

– Khi gà đẻ đạt tỷ lệ 5% toàn đàn bắt đầu tăng mức ăn (tăng theo nguyên tắc tăng dần) và đạt mức ăn cao nhất tại thời điểm đẻ đạt tỷ lệ 40%, 50%, và giữ nguyên mức ăn này đến thời điểm đạt đỉnh và suốt thời gian đạt đỉnh đẻ

– Sau thời điểm đạt đỉnh đẻ, gà bắt đầu đẻ xuống thì mức ăn cũng giảm theo, tuy nhiên không giảm đột ngột,

– Mức ăn thấp nhất sau khi điều chỉnh bằng 92 – 95% so với mức ăn đạt đỉnh và giữ nguyên mức ăn này cho đến khi loại thải đàn gà

– Cho ăn: Bố trí máng ăn 24con/máng (dùng loại máng ăn P50), hàng ngày cần nắm chắc số lượng gà có mặt trong chuồng để lấy thức ăn vừa đủ

5.3.6. Cho uống: Cho gà uống nước sạch và mát thỏa mãn, hàng ngày vệ sinh máng uống. Máng uống dùng loại máng dài đặt trên rãnh thoát nước có chụp song sắt. Mật độ máng uống đặt 2 máng dài cho 100 gà(loại máng tôn dài 1,2m)

5.3.7. Chất độn chuông giữ khô sạch. Khi ẩm ướt phải thay ngay bằng trấu hoặc dăm bào đã sát trùng và rắc vôi bột vào chỗ nền chuồng bị ướt

5.3.8. Phương thức nuôi: Nuôi gà theo phương thức bán chăn thả

– Vườn thả thiết kế bằng phẳng, có trồng cây hoặc tạo dàn cây che mát. Chu vi vườn thả được rào lưới đảm bảo gà không thể bay qua hoặc chui ra ngoài. Chỉ thả gà khi thời tiết khô và ấm, thời tiết bất thuận (sau mưa, lạnh ẩm dài ngày) phải nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng với mật độ 4 con/m2.

– Mật độ thả tối đa 1,5m2/con

CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG CHO GÀ Bảng 2: Chế độ dinh dưỡng CHƯƠNG TRÌNH VACXIN PHÒNG BỆNH Ở GÀ Bảng 3 Chương trình sử dụng vacxin phòng bệnh ở gà được tóm tắt như bảng sau:

5.3.9. Chọn và loại thải gà đẻ định kỳ

TỶ LỆ ĐẺ, NĂNG SUẤT TRỨNG VÀ MỨC ĂN GỢI Ý Bảng 4: Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và mức cho ăn hàng ngày

– Thời điểm bắt đầu chọn và loại thải gà đẻ bắt đầu sau thời điểm gà đẻ đạt đỉnh và đi xuống nhằm loại ra những con không đẻ hoặc đẻ kém Những gà đẻ kém có các biểu hiện như sau:

+ Mào rụt, chân khô, và nhẹ cân

Nguồn: Hạt Thóc Vàng

+ Gà có bụng cứng, lỗ huyệt khô

+ Gà đang thay lông, hai bên sườn và cánh đang mọc lông măng

+ Mặc dù có các biểu hiện trên nhưng trước khi quyết định loại bỏ thì cũng cần kiểm tra xem có trứng non trong tử cung hay không

5.3.10. Thu nhặt trứng: thu nhặt trứng 3-4 lần trong ngày, trứng sau khi nhặt phải sếp vào khay để đầu to lên trên. Trứng bẩn và trứng dập phải để riêng

5.3.11. Hàng ngày kiểm tra gà chết và gà yếu để loại thải. Ghi chép đầy đủ số lượng gà có mặt hàng ngày, lượng thức ăn cho ăn và số trứng đẻ ra vào biểu hoặc sổ theo dõi

Đối với vacxin cúm gia cầm trong quá trình nuôi gà sinh sản tiếp tục sau đó cách 4 đến 5 tháng tuổi lại tiến hành tiêm nhắc lại. Vacxin cúm gia cầm có thể dùng vacxin H5N1 của Trung Quốc hoặc vacxin H5N2 của hãng Intervet hà Lan sản xuất đều có giá trị bảo hộ như nhau

Nguồn cung cấp: Cố vấn chuyên môn Tiến Sỹ Vũ Ngọc Sơn – Trưởng Bộ môn động vật Quý hiếm Viện Chăn Nuôi Quốc Gia, nguyên Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Thực Nghiệm vật nuôi Viện Chăn Nuôi Quốc Gia.

Tài liệu được chuyển giao với mục đích phổ cập kiến thức kỹ thuật chăn nuôi giúp cho bà con phát triển kinh tế chăn nuôi bằng giống gà mía.

Kỹ Thuật Nuôi Dúi Sinh Sản. Cách Nuôi Dúi Sinh Sản Năng Suất Cao

Dúi là vật nuôi còn khá mới mẻ với đa số vùng nông thôn hiện nay. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, mô hình nuôi dúi đang phát triển rất mạnh mẽ, trở thành hướng chăn nuôi tiềm năng mới cho bà con nông dân. Kiến thức quan trọng nhất khi phát triển số lượng đàn dúi là kỹ thuật nuôi dúi sinh sản, tuy không khó nhưng có nhiều điểm cần phải lưu ý. Bài viết này chúng tôi sẽ chia sẻ tới bà con cách chọn dúi giống, làm chuồng nuôi và thức ăn cho dúi sinh sản.

1. Chuồng nuôi dúi sinh sản

Với tính thích đào bới và sống ở những chỗ hẹp, kín đáo thì làm nơi trú ẩn cho dúi không quá quy mô, chỉ cần 50-60 cm. Vật liệu xây chuồng nên sử dụng gạch (để lát nền, hình vuông khoảng 50cm, 30cm và xây tường), cát, xi măng, lưới. Xây ô phối giống kích thước 50x60x24cm. Kích thước ô nhỏ 30x60x24cm, ngăn làm 2 ngăn để làm tổ đẻ, đối với dúi sinh sản làm 2 ô, ô bên trong để sinh sản, ô bên ngoài để thức ăn và là sân chơi thông qua một lỗ 16x11cm. Dùng lưới để làm cửa, có thể làm 1 cánh cửa cho 6 ô, 4 ô hoặc 2 ô, cắt một đoạn ở phần dưới đáy ô để bỏ thức ăn vào và cũng là lối thoát phân cho dúi mỗi khi chúng đùn phân ra ngoài, yêu cầu ô lưới phải đạt 2 ly trở lên, không được nhỏ quá phân sẽ không thoát ra ngoài được. Chuồng có thể làm nhiều tầng, mỗi tầng có nhiều ô, mỗi ô có thể thả từ 2-3 con dúi. Xung quanh chuồng nên xây bờ bao, phòng khi con dúi xổng chuồng không thể thoát ra ngoài được, chiều cao bờ bao khoảng 50cm. Phải có mái che để dúi tránh bị nắng trực tiếp và nước mưa dính vào người. Nếu ở miền Bắc, mùa đông có thể dùng miếng vải hoặc rèm che chuồng để giữ ấm cho dúi.

Cách phân phân biệt dúi đực và dúi cái:

Dúi đực: quan sát bộ phận sinh dục của dúi, nếu là con đực dúi sẽ có 2 tinh hoàn tương tự như của chó, và không có vú.

Dúi cái: nhìn phần bụng sẽ thấy 2 hàng vú ở hai bên bê sườn như lợn.

Chọn con dúi đực khỏe mạnh, không dị tật, tương đương hoặc to hơn dúi cái. Một con dúi đực có thể cho phối giống với 4- con dúi cái. Dúi cái nếu có thể biết nguồn gốc bố mẹ thì tốt, lựa chọn nguồn theo bố mẹ khỏe mạnh, nuôi con mau lớn. Nếu không biết nguồn gốc thì ngoại hình phải to vừa, không quá nhỏ, có hàng vú đều hai bên, lông mượt, chạy khỏe. Chu kỳ sinh sản của dúi cái là khoảng 8 tháng.

3. Thức ăn cho dúi sinh sản

Đặc điểm sinh học của dúi: dúi có tuổi đời trung bình khoảng 6 năm. Số lần để trong năm khoảng 3-4 lần, 3-5con/lần đẻ.Dấu hiệu nhận biết dúi cái đến thời kỳ động dục: Từ lúc sinh ra cho tới khi đến thời điểm động dục là khoảng 6 tháng (dúi cái thường mang thai trong vòng 45 ngày).Biểu hiện muốn động dục: dúi cái thường bỏ ăn hoặc ăn ít, sục sạo tìm gì đó như tìm đực, bộ phận sinh dục chuyển sang màu đỏ hồng. Thời điểm này, nếu cho dúi cái sang ô dúi đực, chúng sẽ phát ra tiếng kêu đặc trưng, và chủ động cho dúi cái phối giống.Cách ghép đôi: Bắt dúi cái cho vào ô dúi đực, đừng thả gần dúi đực tránh trường hợp cắn nhau, nếu cho chúng ở chung một ô mà không cắn nhau là được.Dúi giao phối: Thời gian giao phối giữa dúi cái và dúi đực khoảng 1,5-2 phút. Sau khi phối xong, quan sát thấy cả dúi đực và dúi cái cùng liếm bộ phận sinh dục tức là dấu hiệu giao phối thành công, nếu dúi cái không thực hiện hành động này tức là giao phối không thành công. Chu kỳ giao phối của dúi đực là từ 7-10 ngày. Dúi cái sau 2-3 ngày giao phối đưa đến tổ đẻ để chuẩn bị cho sinh sản. Cho rơm, hoặc rác mềm vào để dúi bện tổ nuôi con.

Dúi con mới đẻ ra không có lông, mắt chưa mở, chỉ mở mắt khi đã đủ 14 ngày tuổi, lúc này lông cũng bắt đầu mọc. Sau 20 ngày tuổi, dúi con có thể tập ăn các loại thức ăn như mía, tre. Cho dúi con lẻ mẹ khi được 1,5 tháng. Khi dúi được khoảng 1.2 – 1.3kg thì có thể xuất bán.* Lưu ý: Dúi cái có đặc điểm, sau khi sinh con, nếu có người xem thường xuyên chúng sẽ tha con ra ngoài tổ, vì thế không nên thăm tổ đẻ nhiều, để dúi mẹ tự chăm sóc cho dúi con đến khi dúi con được 2 tuần tuổi.

Theo chúng tôi

Quy Trình Nuôi Gà Sao Sinh Sản

Chuồng nuôi

Chuồng nuôi gà sinh sản thường là hướng Nam, hoặc Đông Nam. Chuồng nuôi thiết kế theo kiểu bán chăn thả, nửa ngoài không cần mái che nhưng phải được quây kín bằng lưới tránh gà bay mất. Ngoài ra còn phải có hệ thống sào đậu cho gà vì chúng rất thích bay nhảy lên cao nơi hẻo lánh, đồng thời giúp cho gà Sao có thêm không gian sống, mặt khác còn là chỗ để cho gà Sao tránh kẻ thù. Chuồng nuôi còn phải đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông và phải lắp hệ thống chiếu sáng cho gà. Nền chuồng thiết kế đúng kỹ thuật, chắc chắn.

Chọn gà giống

Gà 1 ngày tuổi chọn những gà nhanh nhẹn, mắt sáng, bông lông, bụng gọn, chân mập, cứng cáp không dị tật đi lại bình thường, mỏ khép kín. Có màu lông đặc trưng của giống và khối lượng đảm bảo theo tiêu chuẩn giống. Tránh chọn nuôi những gà khô chân, vẹo mỏ, khoèo chân, hở rốn, xệ bụng, lỗ huyệt bết lông.

Dụng cụ chăn nuôi

Rèm che: Dùng vải bạt, cót ép hoặc phên liếp che xung quanh chuồng nuôi để giữ nhiệt, tránh gió lùa và mưa bão.

Quây úm: Bằng cót. Chiều dài 4 m, chiều rộng 0,5 m.

Máng ăn: Giai đoạn gà con có thể dùng mẹt hoặc khay tôn. Khay bằng tôn có kích thước 80×100 (cm) sử dụng cho 100 con gà. Sau đó chuyển dùng máng bằng tôn dài hoặc tròn.

Máng tôn tròn sử dụng cho 15 con/máng. Máng dài 3 m, cao 5 – 7 cm, sử dụng cho 60 con. Máng uống: Giai đoạn gà con dùng máng gallon 1,5 lít. Chuyển giai đoạn dò, hậu bị và sinh sản dùng máng gallon 4 lít.

Thiết bị sưởi ấm: Có thể dùng bóng hồng ngoại, bóng đèn điện tròn, chụp sưởi, hoặc ở vùng sâu vùng xa có thể dùng bếp than, lò ủ trấu… Khi sử dụng than chú ý thiết kế sao cho khí thải của than phải được đưa ra khỏi chuồng.

Gà đẻ dùng ổ sập bằng tôn hoặc gỗ: Ổ đẻ bằng tôn chiều dài 1,53 m; chiều rộng 0,33 m; chiều cao mặt sau 0,6 m; chiều cao mặt trước 0,4 m; chiều ngang mỗi ô của ổ đẻ 0,27 m. Mỗi ổ đẻ có 6 ô. Mỗi ô của ổ đẻ sử dụng cho 8 con gà mái đẻ.

Ổ đẻ bằng gỗ: Chiều dài 1,8 m; chiều rộng 0,33 m; chiều cao mặt sau 0,6 m; chiều cao mặt trước 0,4 m; chiều ngang mỗi ô của ổ đẻ 0,28 m. Mỗi ổ đẻ có 6 ô. Mỗi ô của ổ đẻ sử dụng cho 8 con gà mái đẻ.

Mật độ nuôi

Mật độ nuôi tính chung cho cả gà trống và gà mái: 3 – 3,5 con/m 2. Các giống gà khác ghép trống mái theo tỷ lệ 1/10 hoặc 1/12, nhưng gà Sao chỉ ghép được theo tỷ lệ 1 trống/5 – 6 mái. Thời điểm ghép lúc 24 – 25 tuần tuổi. Nên chia gà Sao thành các ô nhỏ. Điều này sẽ tránh gà bị đè chết khi bị stress do ngoại cảnh gây nên.

Chăm sóc

Thức ăn phải đảm bảo chất lượng tốt, cân đối đủ mức đạm, năng lượng và cần bổ sung bột đá, bột vỏ sò nhiều gấp 3 – 4 lần so với các giai đoạn trước để gà tạo vỏ trứng. Nước uống và cho uống: Phải đảm bảo sạch, mát. Thay nước 1 – 2 lần trong ngày để nước sạch mát hơn.

Chế độ chiếu sáng: Sử dụng ánh sáng 24/24 giờ. Ban ngày sử dụng ánh sáng tự nhiên, buổi tối thắp bóng điện. Cường độ chiếu sáng: 3 – 3,5 w/m 2 nền chuồng.

Thu trứng và bảo quản trứng giống: Ổ đẻ phải có lớp lót dày và sạch tránh làm dập và bẩn trứng. Lấy trứng ấp sau khi gà đẻ được 4 tuần. Trứng được thu 3 – 4 lần trong ngày, để tránh bị dập vỡ và bẩn. Bảo quản trứng ở nơi thoáng mát, sạch sẽ. Điều kiện bảo quản tốt nhất 15 – 17 0 C, ẩm độ 72 – 75%. Do vỏ trứng gà Sao rất dày cho nên có thể bảo quản trứng ở nhiệt độ thường từ 7 – 10 ngày đối với mùa đông, 5 – 7 ngày đối với mùa hè.

Phòng bệnh

Biện pháp vệ sinh trống chuồng sau mỗi lứa gà:

Phải phun sát trùng ngay lớp độn chuồng bằng thuốc sát trùng phổ rộng. Nếu thấy các loại ký sinh trùng thì phải trộn thêm thuốc diệt côn trùng;

Đưa toàn bộ lớp độn và phân đến vị trí quy định để xử lý, sau đó quét dọn sạch toàn bộ nền chuồng;

Rửa sạch trần, nền và tường chuồng bằng máy phun cao áp;

Sát trùng chuồng: phun thuốc sát trùng phổ rộng;

Quét vôi toàn bộ nền, tường chuồng;

Quét dọn khu vực xung quanh chuồng gà và phun thuốc sát trùng;

Đặt thuốc diệt loài gậm nhấm vào nơi chúng hay xuất hiện trong khu vực nuôi gà;

Sau khi làm xong các bước trên, để trống chuồng 2 – 3 tuần. Trong thời gian trống chuồng, cần đóng kín các cửa để các loài động vật, côn trùng không xâm nhập vào được, đồng thời bảo dưỡng chuồng trại và sửa chữa trang thiết bị. Đối với bãi chăn thả cần để trống 8 tuần.

Đặc Điểm Sinh Học, Khả Năng Sản Xuất Của 3 Giống Gà Địa Phương: Gà Hồ, Gà Đông Tảo Và Gà Mía

Việt nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa, là điều kiện thuận lợi cho các loài động thực vật phát triển. Vì vậy nước ta được đánh giá là có đa dạng sinh học vào bậc nhất thế giới.

Từ điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng với lịch sử phát triển lâu đời của nền nông nghiệp lúa nước, nhân dân ta đã thuần dưỡng, chọn lọc được nhiều giống vật nuôi. Đặc biệt là rất phong phú và đa dạng về các giống gà: Ri, Mía, Hồ, Đông Tảo, Tàu Vàng, Tre. Chọi, Ác, H’mông… tuy nhiên, hiện trạng và khả năng sản xuất của các giống gà này cần được hệ thống hoá và đánh giá đa dạng di truyền giúp cung cấp căn cứ để định hướng bảo tồn và phát triển các giống gà nội. Trong khuôn khổ của đề tài “Đánh giá đa dạng di truyền của các giống gà nội” thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, chúng tôi tiến hành điều tra số lượng, cơ cấu đàn, theo dõi một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của các giống gà Hồ, Đông Tảo và Mía.

2. Phương pháp

Nghiên cứu tiến hành trên đối tượng là 3 giống gà nội: Hồ, Đông Tảo và Mía, với hai nội dung chính: Điều tra đánh giá hiện trạng về số lượng, cơ cấu đàn, đặc điểm ngoại hình và một số chỉ tiêu sinh sản của 3 giống gà trên tại các địa phương vốn là nơi nguyên sản xuất chúng: gà Hồ tịa thị trấn Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh; gà Đông Tảo tại xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, Hưng Yên và gà Mía tại xã Đường Lâm, thành phố Sơn Tây, Hà Nội. Thu thập số liệu thứ cấp tại các cơ quan quản lý chăn nuôi của địa phương, trực tiếp điều traphỏng vấn các hộ chăn nuôi theo bộ câu hỏi mở. Ở mỗi địa phương, điều tra tại 50 hộ có nuôi các giống gà này. Thời gian điều tra: từ tháng 2 – 6/2007.

Theo dõi khả năng sinh trưởng của 3 giống gà: hồ (76 con), Đông Tảo (100 con) và Mía (182 con) từ sơ sinh tới 20 tuần tuổi, được nuôi theo phương thức công nghiệp với chế độ dinh dưỡng như đối với các giống gà lông màu và được ăn với chế độ ăn tự do để đánh giá khả năng sinh trưởng, tỷ lệ nuôi sống và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng tại Trung tâm nghiên cứu và huấn luyện chăn nuôi trong năm 2007.

2.2 Phương pháp xử lý số liệu

Kết quả được xử lý thống kê mô tả bằng phân mềm Excel. 2003 và SAS 8.1 tại Bộ môn Di truyền – Giống vật nuôi, Khoa chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Các giá trị trung bình được so sánh theo phương pháp bằng phần mềm SAS 8.1

3. Kết quả 3.1. Số lượng và cơ cấu của các giống gà

Kết quả thu được về số lượng và cơ cấu đàn của 3 giống gà được thể hiện ở Bảng 1

Bảng 1. Số lượng và cơ cấu đàn gà Hồ, Đông Tảo và Mía

Bảng 1 cho thấy, các giống gà chỉ còn được duy trì với số lượng rất ít, nhiều nhất là gà Mía với 2804 cá thể, đặc biệt là gà Hồ chỉ còn 572 cá thể. Với số lượng này có thể thấy nguy cơ tuyệt chủng luôn là mối đe doạ các giống gà này. Đây cũng vẫn còn là một báo động đối với công tác bảo tồn các giống gà quý này, nhất là trong thời điểm dịch bệnh xảy ra.

Các quan sát và mô tả đặc điểm ngoại hình đặc trưng của ba giống gà Hồ, Đông Tảo và gà Mía được tổng hợp ở bảng 2.

Bảng 2. Đặc điểm ngoại hình đặc trưng của gà Hồ, gà Đông Tảo và gà Mía

Gà trống màu mận chín (mã mận), màu đen (mã lĩnh).

Gà mái lông màu đất thó (mã thó), màu quả nhãn (mã nhãn), màu chim xẻ (mã xẻ).

Gà trống màu mận chín pha màu đen (mã mận), màu đen nhiều hơn (mã lĩnh).

Gà mái lông màu vàng nhạt, màu nâu nhạt

Gà trống lông chủ yếu có màu mận chín, còn lại là lông đen.

Gà mái lông màu lá chuối khô.

Nhìn chung, gà trống của ba giống gà này có màu sắc lông tương tự nhau, riêng gà trống Mía có mào đơn, trong khi hai giống còn lại không có mào đơn. Hình dáng của gà Mía bầu bĩnh, dáng hơi lùn so với hai giống gà kia.

Gà Hồ và Đông Tảo có hình dáng, màu lông khá giống nhau, chỉ có một điểm mấu chốt để phân biệt đó là kích thước và đặc điểm của chân: chân gà Đông Tảo rất to và xù xì, có vảy thịt màu vàng viền đỏ, trong khi đó gà Hồ có chân nhỏ hơn, bề mặt trơn nhẵn, không xù xì, như gà Đông Tảo.

Để đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của 3 giống gà, chúng tôi đã tiến hành điều tra và kết quả được trình bày trong Bảng 3.

Kết quả điều tra này cho thấy gà Hồ và gà Đông Tảo có khối lượng khi thành thục là tương đương nhau nhưng gà Hồ lại có tuổi thành thục sinh dục muộn hơn rất nhiều. Như vậy về chỉ tiêu này, nuôi gà Hồ sinh sản sẽ kém hiệu quả hơn gà Đông Tảo. Hơn nữa Đông Tảo có sản lượng trứng/ mái/ năm cao hơn so với gà Hồ (67,09 quả/ mái/ năm) trong khi đó gà Hồ là 51,27 quả/ mái/ năm. Chính vì vậy việc nhân thuần đàn gà Hồ hiện nay gặp rất nhiều khó khăn do tuổi thành thục muộn và năng suất trứng thấp.

Thực tế hiện nay gà Đông Tảo đang rất phát triển. Trong khi gà Hồ ở thôn Lạc Thổ hiện nay có số lượng rất ít. Năng suất sinh sản của gà Mía là tốt nhất trong 3 giống gà Hồ, Đông Tảo, Mía. Tuổi thành thục của gà Mía là sớm nhất 188,17 ngày. Sản lượng trứng/ mái/năm đạt cao 96,20 quả/ mái/ năm. Theo công bố của Lê Viết Ly và cs (2001), gà Mía đẻ quả trứng đầu tiên ở 165 – 179 ngày tuổi, số trứng 9 tháng đẻ là 55 – 62 quả/ mái. Gà Đông Tảo tuổi thành thục là 159 ngày, sản lượng trứng của 10 tháng đẻ là 68,3 quả. Gà Hồ tuổi thành thục là 8 tháng, sản lượng trứng khoảng 40 – 50 quả/ mái/ năm. Như vậy, năng suất trứng của các giống gà trong nghiên cứu này là tương đương với công bố của Lê Viết Ly.

Trong 3 giống gà Hồ, Đông Tảo, Mía thì năng suất sinh sản của gà Mía là cao nhất với tuổi thành thục sớm và khối lượng thành thục thấp, sản lượng trứng/ mái/ năm là cao nhất, trội hơn hẳn so với 2 giống còn lại. Tuy nhiên, khối lượng trứng là thấp nhất và chênh lệch về khối lượng trứng giữa các giống là khá lớn: khoảng 3 – 4 g/quả. Gà Hồ có sản lượng trứng/ mái/ năm là thấp nhất 51,27 quả/ mái/ năm. Nhưng khối lượng trứng của gà Hồ lại đạt cao nhất 52,32 g/quả, trong khi đó gà Mía có khối lượng trứng là 42,16 g/quả.

Khả năng sinh trưởng của 3 giống gà Hồ, Đông Tảo và Mía từ 0 đến 9 tuần tuổi được thể hiện ở Bảng 4. Khối lượng gà 1 ngày tuổi của 3 giống gà rất khác biệt, có khối lượng sơ sinh cao nhất là gà Đông Tảo (35,33 g/con) thấp nhất là gà Mía (30,06 g/con). Theo Lê Viết Ly và cs (2001), khối lượng 1 ngày tuổi của gà Đông Tảo là 38,5 g/con và gà Mía43 g/con.

Như vậy, kết quả của chúng tôi thu được là thấp hơn. Mặc dù gà Mía có khối lượng xuất phát lúc 1 ngày tuổi thấp nhất, nhưng chúng lại có tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn 0 – 9 tuần tuổi luôn ở mức cao nhất, tiếp đến là gà Hồ và thấp nhất là gà Đông Tảo. Từ 2 – 5 tuần tuổi, gà Đông Tảo luôn có khối lượng tương đương gà Hồ và thấp hơn gà Mía. Vào tuần tuổi thứ 6 và 7, gà Đông Tảo luôn có khối lượng thấp hơn rõ rệt so với gà Hồ và Gà Mía (P < 0,05).

Tuy nhiên đến tuần thứ 9, gà Đông Tảo có khối lượng tương đương gà Mía và cao hơn gà Hồ (P < 0,05). Lúc 10 tuần tuổi, việc phân biệt trống, mái theo ngoại hình của ba giống gà đã rất rõ ràng, vì vậy theo dõi sinh trưởng được tách riêng giữa gà trống và gà mái, kết quả được thể hiện ở Bảng 5 và Bảng 6.

Như vậy, gà Mía có tốc độ sinh trưởng nhanh trong giai đoạn 0 đến 9 tuần tuổi, sau đó chậm dần. Điều này có thể lý giải là do gà Mía có tuổi thành thục sớm nhất và khối lượng khi trưởng thành nhỏ hơn so với gà Hồ và gà Đông Tảo. Gà Hồ và gà Đông Tảo có tuổi thành thục muộn hơn, khối lượng trưởng thành lớn hơn hẳn so với gà Mía, vì vậy giai đoạn đầu chúng sinh trưởng với tốc độ chậm hơn, nhưng đến giai đoạn sau, chúng sinh trưởng nhanh hơn và có khối lượng cao hơn hẳn so với gà Mía lúc ở 20 tuần tuổi.

Tỷ lệ nuôi sống giai đoạn 5 – 6 tuần tuổi được trình bày ở Bảng 7.

Bảng 7. Tỷ lệ nuôi sống của các giống gà Hồ, Đông Tảo và Mía

Kết quả bảng 7 cho thấy, tỷ lệ nuôi sống giai đoạn 5 – 6 tuần của cả ba giống gà này đều ở mức trên 90%, từ tuần thứ 7 trở đi tỷ lệ nuôi sống của gà Mía đã tương đối thấp. Đến 20 tuần tuổi, tỷ lệ nuôi sống của gà Mía chỉ là 67,58%, cao nhất là gà Đông Tảo cũng chỉ đạt 85,00%. Theo Nguyễn Văn Lưu (2005), tỷ lệ nuôi sống của gà Hồ giai đoạn 0 – 12 tuần tuổi là 92,28 – 100%, theo Lê Thị Nga (1999), tỷ lệ nuôi sống của gà Đông Tảo giai đoạn 0 – 6 tuần tuổi đạt 95,33%. Điều này cho thấy, tỷ lệ nuôi sống của các giống gà trong nghiên cứu này là thấp.

3.6 Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng

Tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng của gà Mía là tăng dần: 1 tuần tuổi và 20 tuần tuổi tương ứng là 0,50 và 6,32 kg TĂ/kg tăng trọng. Từ 1 – 8 tuần tuổi, gà Mía có mức tiêu tốn thức ăn thấp nhất, tiếp đến là gà Hồ và cao nhất là gà Đông Tảo.

Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối, gà Mía lại có mức tiêu tốn thức ăn cao hơn 2 giống kia. Lý do là khối lượng trưởng thành của gà Mía là thấp hơn, vì vậy giai đoạn đầu tuy tiêu tốn thức ăn thấp hơn, nhưng khi tốc độ sinh trưởng chậm lại, tầm vóc cơ thể bắt đầu ổn định, tiêu tốn thức ăn tăng lên.

Trung bình toàn bộ giai đoạn sinh trưởng từ 1 – 20 tuần tuổi, gà Hồ có mức tiêu tốn thức ăn thấp nhất, tiếp đó là gà Đông Tảo và cao nhất là gà Mía. Kết quả này cao hơn so với các nghiên cứu khác: theo Nguyễn Văn Lưu (2005) tiêu tốn thức ăn của gà Hồ đến 16 tuần tuổi là 3,32 kg Theo Nguyễn Văn Thiện (1999), tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng đến 15 tuần tuổi của gà Mía ở con trống là 2,63kg, ở con mái là 2,70 kg, đến 24 tuần tuổi con trống là 3,88 kg, con mái là 4,75kg.

Bảng 8. Thu nhận và tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng của các đàn gà Hồ, Đông Tảo, Mía.

Tuy nhiên, theo Nguyễn Đăng Vang và cs, (1999) tiêu tốn thức ăn của gà Đông Tảo tính đến 22 tuần tuổi ở con trống là 3,89 kg, con mái là 4,55kg.

4. Kết luận

Ba giống gà Hồ, Đông Tảo, Mía có thể phân biệt đặc điểm giống thông qua các đặc điểm ngoại hình màu lông, kiểu mào, vẩy chân.

– Số lượng cá thể tại nơi nguyên sản của mỗi giống rất ít: gà Hồ là 572 con, gà Đông Tảo là 820 con và gà Mía là 2804 con.

– Cả 3 giống gà đều có tuổi đẻ trứng đầu muộn: gà Hồ là 288,45; Đông Tảo là 194,32 và Mía là 188,17 ngày tuổi. Năng suất trứng đạt thấp: Hồ là 51,27 quả/ mái/ năm; Đông Tảo 67,09 quả và Mía là 96,20 quả/ mái/ năm.

– Sinh trưởng trong giai đoạn 0 – 9 tuần tuổi của gà Mía là cao nhất, nhưng từ 10 đến 20 tuần tuổi, gà Hồ và Đông Tảo là tương đương còn gà Mía thì thấp hơn hẳn.

– Tỷ lệ nuôi sống đến 20 tuần tuổi ở gà Đông Tảo là 85%, gà Hồ là 76,32% và gà Mía 67,58%.

– Tiêu tốn thức ăn đến 20 tuần tuổi ở gà Mía là cao nhất (6,32 kg/kgTT_), thấp nhất là gà Hồ (3,72 kg/kgTT).

Nghiên cứu khả năng sinh sản, sinh trưởng và khả năng cho thịt của gà Hồ, 1. Nguyễn Văn Lưu (2005). Luận văn Thạc sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.

Chuyên khảo bảo tồn nguồn gen động vật ở Việt 2. Lê Viết Ly (2001). (tập II). Nxb Nông nghiệp – Hà Nội.

Nghiên cứu khả năng sinh sản của gà Đông Tảo và con lai giữa gà Đông Tảo với gà Tam Hoàng, 3. Lê Thị Nga (1999). Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp.

. Khả năng sinh trưởng, cho thịt và sinh sản của gà Mía, 4. Nguyễn Văn Thiện và Hoàng Phanh (1999) Chuyên san chăn nuôi gia cầm, Hội chăn nuôi Việt Nam.

Nghiên cứu khả năng sản xuất của gà bố mẹ ISA color và con lai giữa gà ISA với gà SASSO (X44). 5. Phùng Đức Tiến, Trần Công Xuân, Lê Thị Nga, Đỗ Thị Sợi, Đào Thị Bích Loan, Nguyễn Thị Mười và Lê Tiến Dũng (2004). Kabir, Lương Phượng, Báo cáo khoa học Chăn nuôi Thú y – Phần chăn nuôi gia cầm. Nxb Nông nghiệp.

Khả năng sản xuất của gà Đông Tảo nuôi tại Thuỵ Phương, 6. Nguyễn Đăng Vang, Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến, Lê Thị Nga và Nguyễn Mạnh Hùng (1999). Chuyên san chăn nuôi gia cầm, Hội Chăn nuôi Việt Nam.

Lai kinh tế gà 7. Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến và Phạm Thị Minh Thu (1999). Leghorn và Rhode Ri, chuyên san chăn nuôi gia cầm, Hội chăn nuôi Việt .