Xu Hướng 3/2023 # Chính Thức Cho Phép Người Việt Được Chơi Casino # Top 10 View | Raffles-design.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Chính Thức Cho Phép Người Việt Được Chơi Casino # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Chính Thức Cho Phép Người Việt Được Chơi Casino được cập nhật mới nhất trên website Raffles-design.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chính phủ quyết định đồng ý thí điểm cho người Việt vào chơi casino tại Việt Nam trong 3 năm với nhiều quy định chặt.

Nghị định 03/2017/NĐ-CP về kinh doanh casino vừa được Chính phủ ban hành. Nghị định này quy định về việc kinh doanh, quản lý hoạt động kinh doanh và xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh casino trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghị định cho phép 2 đối tượng được vào chơi casino tại Việt Nam.

Một là người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hộ chiếu nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, giấy thông hành còn giá trị và nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam.

Những người này phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam và tự nguyện chấp hành Thể lệ trò chơi, nội quy điểm kinh doanh casino của DN và các quy định tại Nghị định này.

Đặc biệt, Nghị định thí điểm cho người Việt Nam chơi casino. Cụ thể, người Việt được chơi casino tại các địa điểm đáp ứng các quy định tại Nghị định này và được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Thời gian thực hiện thí điểm là 3 năm kể từ ngày DN kinh doanh casino đầu tiên được phép thí điểm cho người Việt Nam chơi casino. Sau 3 năm thí điểm, Chính phủ sẽ tổng kết, đánh giá và quyết định việc tiếp tục cho phép người Việt Nam chơi casino hoặc có thể chấm dứt không cho phép người Việt Nam chơi casino ở Việt Nam.

Người Việt Nam được phép vào chơi casino phải là người đủ 21 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Có đủ năng lực về tài chính để tham gia trò chơi tại điểm kinh doanh casino. Người chơi phải chứng minh được có thu nhập thường xuyên từ 10 triệu đồng/tháng trở lên hoặc thuộc diện chịu thuế từ bậc 3 trở lên theo quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể hồ sơ chứng minh người chơi có đủ năng lực tài chính.

Phải mua vé tham gia chơi tại Điểm kinh doanh casino. Mức vé là 1 triệu đồng/24 giờ liên tục/người hoặc 25 triệu đồng/tháng/người.

Khong thuộc đối tượng bị người thân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự trong gia đình là bố, bố nuôi, mẹ, mẹ nuôi, vợ, chồng, con ruột hoặc bản thân có đơn đề nghị DN kinh doanh casino không cho phép chơi tại Điểm kinh doanh casino.

Người Việt Nam vào chơi casino chỉ được dùng tiền đồng Việt Nam để đổi đồng tiền quy ước và được đổi đồng tiền quy ước ra đồng việt Nam trong trường hợp chơi không hết hoặc trúng thưởng.

Người không được vào chơi casino là người đã bị khởi tố hình sự mà các cơ quan tố tụng của Việt Nam hoặc nước ngoài đang tiến hành điều tra, truy tố, xét xử.

Người có tiền án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác do lỗi cố ý bị kết án từ 3 năm tù trở lên chưa được xóa án tích.

Người đang trong thời gian được tạm hoãn chấp hành hình phạt tù.

Người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhận chức vụ, cấm kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự theo quyết định của Tòa án.

Người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian chờ thi hành quyết định; đang nghiện ma túy…

Nghị định không giới hạn mức vốn với doanh nghiệp kinh doanh casino, mà chỉ phân biệt doanh nghiệp kinh doanh casino lớn (2 tỷ USD trở lên) và doanh nghiệp kinh doanh casino nhỏ (dưới 2 tỷ USD).

Kinh doanh casino phải gắn với hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy phát triển về du lịch, thương mại, đa dạng hóa hình thức vui chơi giải trí, làm phong phú đời sống tinh thần và thu hút khách du lịch; phải đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng.

Việc tổ chức, tham gia các trò chơi có thưởng phải đảm bảo minh bạch, khách quan, trung thực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Nghị định quy định rõ các hành vi nghiêm cấm như cho phép, tổ chức cá cược trực tiếp giữa người chơi với người chơi dựa trên kết quả của các trò chơi có thưởng tại Điểm kinh doanh casino; gian lận trong quá trình tổ chức, tham gia các trò chơi có thưởng tại Điểm kinh doanh casino; có các hành vi làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại Điểm kinh doanh casino theo quy định của pháp luật; doanh nghiệp kinh doanh các máy trò chơi, bàn trò chơi, đồng tiền quy ước và các thiết bị trò chơi có nội dung, hình ảnh chưa được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm định cho phép phổ biến, lưu hành theo quy định của pháp luật.

L.Bằng

Bàn Về Bốn Phép Xem Người Tới Tám Phép Chọn Người

Ngày đăng: 21/07/2020 02:51

1. Bốn phép xem người Xem người, đánh giá đúng một con người, từ xưa đến nay luôn là một vấn đề khó. Chẳng thế mà từ xưa bao bậc tiền nhân luôn trăn trở: “Họa hổ họa bì nan họa cốt/Tri nhân tri diện bất tri tâm” (Vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương/Biết người biết mặt không biết lòng) hoặc dân gian có câu “Sông sâu còn có thể dò/Lòng người chín khúc ai đo cho tày”.

Một là, thân – tức dung mạo. Thành ngữ có câu: “Người năm bảy đấng, của ba bảy loài”. Đó là xem xuất thân là rất cơ bản, lấy đây làm điểm xuất phát. Người sinh ra với cốt cách sang trọng, dù có sinh trưởng từ gia đình thuộc lớp nghèo hèn, bình dân, tự bản chất đã mang vẻ cốt cách, phong thái của mình. Tâm tính tạo nên phong thái bên ngoài cũng như giá trị con người; hình thái, phong cách thể hiện một phần nào bản chất con người.

Cổ nhân có câu: “Nhân hiền tại mạo”, “Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Người ngay thẳng, chính trực không thể có cặp mắt láo liên, người có ngũ quan ngay ngắn thì phong thái đàng hoàng, người nhìn thẳng thì lời ăn tiếng nói không thể gian dối, thiên thẹo: “Đàn ông trán dựng có tài/Đàn bà trán dựng lâu đài soi gương”, “Mắt ngước, chân bước nhẹ nhàng/Tướng đi khang nhã, rõ ràng hiền nhân”, “Người khôn con mắt đen sì/Người dại con mắt nửa chì nửa thau”, “Những người thành thật môi dày/Lại thêm ít nói lòng đầy nghĩa nhân”… Ngược lại thì: “Mắt trắng môi thâm”, “Mặt khó đăm đăm, tát nước đầm không cạn”; “Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính” (Hai mắt lệch lạc, lòng dạ đen tối),…

Hai là, ngôn – tức lời nói.

Người xưa chia ra: nhất thanh, nhị sắc, tam hình. Nhạc khí làm bằng đồ tốt thì âm thanh tốt. Con người cũng thế. “Tiếng cả nhà thanh”: người có tiếng nói âm hưởng lan rộng và ngân là quý tướng; trái lại, thì: “Tiếng nói rít qua kẽ răng là người nham hiểm sánh bằng hổ lang”. Âm thanh tiếng nói, theo tướng diện hoặc thân, khác với lời nói, tức là khác với ngôn. “Khẩu Phật tâm xà”, “Trung ngôn nghịch nhĩ”, “Vàng thì thử lửa, thử than/Chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời”… chính là ngôn vậy.

Cách đây hơn bảy trăm năm, danh tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn để lại kinh nghiệm trong việc xem lời nói của con người để xét đoán người: Hỏi bằng lời nói xem trả lời có rõ ràng không; lấy lời cật vấn đến kỳ cùng để xem cách ứng biến của họ; hỏi rõ ràng tường tận để xem đức hạnh thế nào.

Đặc biệt, trong các phép để biết người, có nhiều phép xem người, qua lời nói để đo khí độ, tiền nhân cũng dặn rằng: Hỏi việc phải trái để dò chí hướng; lấy lời cật vấn để biết ứng biến; đem mưu kế hỏi để lường kiến thức. Mời rượu cho uống say để xét tính tình; đưa lợi gái thử để rõ thanh liêm chính trực không?

Ba là, chính – tức là chính sự.

Chính sự luôn được xem là một nghề. Nhưng nghiệp mới là trọng. Vinh nhục, thành bại, còn mất của đời người tham gia chính sự, có lẽ nằm cả ở nghề và nghiệp, tùy thuộc vào sự hành xử đối với nghề nghiệp. Vì thế, xem người là vấn đề cực kỳ quan trọng. Nó mệnh hệ tới người khác, tạo an nguy tới cộng đồng, thậm chí quyết định sự còn mất đối với dân tộc. Hơn bao giờ hết, lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng. Do đó, “Dĩ công vi thượng” phải là phẩm giá cao nhất của bất cứ ai, trước hết đối với những người tham gia chính sự.

Ông cha ta đã căn dặn rằng người dùng đức để đem đường đi cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự; người có địa vị cao quý mà không kiêu căng, công hơn người mà không cậy, tài năng mà biết hạ mình, cứng cỏi mà biết nhẫn nhịn, thì ghi lấy danh và nhớ lấy để tìm. Và, rằng, người quân tử tiến thoái quả quyết, xem người thì thanh thản vui tươi, chí thì ở trừ tàn bạo, đó là khí độ của người tướng quốc. Thấy ác không giận, thấy lành không mừng, nhan sắc không thay đổi, đó là lượng của người dẫn dắt muôn người, thì quý giá vô song. Thói thường, núi cao luôn giấu ngọn, sông sâu thường lặng sóng, hiền nhân thường khuất mình, ngọc tự tỏa sáng, ngọc chẳng bán rao. Ẩn mình như thế, âu đã dễ nhìn ra?

Trong công việc chính sự, xưa nay thường thấy, người không thành tín, không đức dày không dẫn dắt được ai, nên đứng ngoài chính sự. Không thành tín thường sinh ra bất liêm, mà bất liêm lại sinh ta tư túng, hủ bại, phù hoa, xa xỉ, nhất là nạn trộm cắp vạn hình, nhất là đạo vị (trộm cắp chức vụ), tham nhũng đủ loại, hà lạm muôn vẻ, thì vô hình trung làm nát chính sự. Hơn lúc nào hết, lúc này, chính trị chính là đạo đức. Tất cả những tệ ấy được người ta ngụy trang dưới muôn màu, thật khéo léo, tinh vi, đã và đang làm nhiễu loạn chính trường, làm rối loạn lòng người, cấp bách cần nhận ra (và kiên quyết phải tẩy trừ). Đây là những tệ nạn phi đạo đức: lòng tham mà không chán; ghen người hiền, ghét người tài; tin lời dèm pha, thích lời nịnh hót; xét người mà không xét mình; do dự không quả quyết; say đắm rượu và sắc đẹp; thích xảo trá mà lòng nhút nhát; nói lời viển vông mà không giữ lễ. Những hạng ấy, thì không mảy may luyến tiếc, quyết buông bỏ.

Bốn là, hành – tức làm việc.

Một việc làm cụ thể có giá trị hơn nghìn lời nói suông. Nhìn họ xử lý và vượt qua chuyện hiểm nguy để soi dũng cảm; đem việc cậy nhờ để xét sự trung thành, tín nghĩa. Nhìn những người dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ để xếp việc cho họ, hiểu thấu sự đói rét của người dưới, biết rõ khó nhọc của đồng sự để thấy và nhận ra bậc nhân tướng. Thấy những người làm việc không cẩu thả, thấy lợi mà không tham, biết chết vinh hơn sống nhục thì đấy là những người nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trông những người thưởng phạt nghiêm minh công bằng, khen thưởng không chậm trễ và không bỏ sót, trừng phạt không buông tha cho kẻ cao quý… thì đó là những bậc liêm, sỉ, tín tướng chân chính. Quý giá xiết bao.

Lại nhìn những người có thể vượt núi non cheo leo, từng trải việc nguy hiểm, tới thì đi trước, lui thì về sau, đó là những người có gan đột phá tiên phong, ân nghĩa đủ đầy, xứng bậc hiền nhân. Những người khí thế vượt hẳn ba quân, dám coi thường địch mạnh, gặp đánh nhỏ vẫn luôn cẩn trọng, gặp đánh lớn thì can đảm quả quyết thì họ là những người chỉ huy quyền biến và dũng mãnh. Đặc biệt, những người gặp hiền tài thì tôn trọng lắng nghe, biết tỏ ý mình không theo kịp người, biết nghe lời can ngăn như thuận theo dòng nước, lòng rộng rãi nhưng chí cương quyết, giản dị và nhiều mưu kế-,-giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục… thì đấy là người có thể dẫn dắt triệu người và xứng đáng ở bậc kinh bang tế thế.

Nhưng, phàm những ai chỉ được sự thắng nhỏ, gặp sự thua nhỏ, mà mừng lo hình ra nét mặt, hễ thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh, nhát mà không tính toán gì, cất chân thì thần sắc không định, mà hay lấy lời nói để thắng người hoặc những người tính khí thất thường, chợt nóng chợt lạnh, hẹp hòi, đố kỵ người tài, “đội trên đạp dưới”… thì đấy là những người không đáng để mắt trong chính sự, nếu không muốn mọi việc đổ vỡ, nhân tâm ly tán, muôn sự tan tành.

Cố nhiên, không phải lúc nào cũng thống nhất giữa thân với ngôn, giữa ngôn với hành như vậy. Thế sự đã tổng kết song vẫn đang còn để ngỏ: biết tính tình của người, chẳng gì khó bằng xem xét, lành dữ tuy khác nhau, tính tình và vẻ mặt chẳng phải một; có kẻ thì ôn hoà, hiền lành nhưng làm việc trộm cắp; có kẻ bề ngoài thì cung kính nhưng trong bụng thì vô lễ, dối trá; có kẻ bề ngoài thì mạnh dạn nhưng trong bụng thì khiếp sợ; có kẻ làm việc tận lực nhưng bụng không trung thành. Thật cần con mắt của muôn dân cùng thẩm xét!

Xem đúng người tối thiểu qua bốn phép thân, ngôn, chính, hành khả dĩ sẽ thấy trúng người, do đó không bỏ sót, luôn tuyển chọn đúng, trúng nhân tài cần chọn và theo đó, việc cắt đặt, dùng người phù hợp, mọi sự sẽ hanh thông, chuẩn tắc. Mọi thành công của bộ máy, của sự nghiệp và tới lượt mỗi người, sẽ từ đó mà trở nên và tấn tới.

2. Tám phép chọn người

Sau việc xem người là bước vạn sự khởi đầu nan trong việc dùng người, thì việc chọn người vô cùng hệ trọng, nhất là người đứng đầu các đơn vị, tổ chức. Từ kinh nghiệm thực tiễn bước đầu hình dung và tóm lược tám phép chọn người như sau:

Một là, chọn tâm hay chọn tài.

Ấy là câu hỏi của muôn thuở. Tâm quý hay tài quý. Cổ nhân từng răn: “Có tài mà cậy chi tài/Chữ tài liền với chữ tai một vần”; “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Trong lịch sử xưa nay, khi quyền lực mà đem giao cho những kẻ mang cái tâm kém, thì giống như thả rông thú dữ vào xã hội; giao cho những kẻ ham thích tiền quyền, “tiền tài vị tiền tài”, nhất định có ngày quốc gia bị đem phát mãi, thậm chí cả những người cả dùng và cất nhắc họ, có ngày nhất định bị đem bán mua, đổi chác. Chưa thấy ai xưa nay, có tâm mà không có tài. Tâm thực thì người sẽ đến, tâm cao thì tài sẽ lớn, tâm quảng khoát thì sẽ đủ tầm bao quát bốn bể, dẫn dắt thiên hạ.

Vì thế, thượng sách: tâm và tài; trung sách: tâm và hạ sách: tài.

Hai là, chọn tình hay chọn lý.

Người Việt Nam ta có câu: “Cả trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Tình thì rất quý. Nhưng, nếu lụy cái tình như thế, thì “Một bỏ làm mười”, “Hòn đất cất nên ông bụt”, “Yêu nên bụt, ghét ra ma”, tất người tài bỏ đi, sĩ phu ngoảnh mặt, ắt sẽ làm nát chính sự. Rốt cục, cả hai cái tình cái lý, đều vì thế mà hỏng.

Nên ở đây, thượng sách phương châm chọn, cần dứt khoát, “Dù thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ”: “Thương anh em để trong lòng/Việc công xin cứ phép công em làm”. Ấy mới cần sự thấu tình đạt lý, nhưng trước nhất cái lý phải làm đầu, trong việc chọn người!

Ba là, chọn vì “lễ nghĩa” hay chọn vì đảm lược.

Người ta thường nói: “Ở đời, cần phải biết điều”, “Tốt lễ dễ thưa”, “Việc quan không thể nói bằng nước dãi”, “Ông có chân giò, bà thò nậm rượu”, “Đi nặng về nặng, đi nhẹ về nhẹ, đi không thì… về không”.

Xưa nay, mấy ai đủ dũng khí ngoảnh mặt với “lễ nghĩa” kiểu ấy nên không ít đã “Há miệng mắc quai”, thậm chí “Một miệng mười quai”, nên vô hình làm tôi tớ cho bọn người dùng “lễ nghĩa” để đổi chác tước, bán mua vị. Chọn người kiểu như thế thì người đảm lược, tài hoa, có nhân, nghĩa, liêm sỉ lánh xa. Không cần nói, đội ngũ chỉ toàn những kẻ bán mua, đổi chác, chính sự đã tự nó nát bét rồi. Mong sao trở lại cái thời “Câu đương chặt ngón chân” của Thái sư Trần Thủ Độ.

Bốn là, chọn mẫu mã hay chọn thực việc.

Ấy là chuyện bằng cấp và thực tài. Người ta lóa mắt và chuộng hư danh, đặt ra bao nhiêu tiêu chuẩn về bằng cấp và ngó lơ những người thực việc. Họ có biết đâu rằng, theo đó, vô khối kẻ ngược xuôi bán mua bằng cấp, cốt lấy hư danh lừa đời: “Điểm tô cái mẽ bề ngoài/Che đi cái vẻ sơ sài bên trong” nhưng kỳ thực thì “Chữ không hay, cày chẳng biết”, “Tốt mã rẻ cùi”, “Toàn tòng tại chức”. Từ văn chương, chiếu biểu cho tới biện lý, hành sự với đám này khác chi trò xa xỉ. Họ không thuộc những đám “Cáo mượn oai hùm”, “Đông Quách tiên sinh” thì cũng ở hạng: “Ma mang mặt người”, “Ruồi trên đầu hổ”…

Năm là, chọn người khéo nói hay chọn người trung trực.

Thói thường thì ghét bỏ người “Trung ngôn nghịch nhĩ” (lời nói thẳng khó nghe) mà lại thích kẻ “Xảo ngôn, lệnh sắc,…” (nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ niềm nở,…). Nhưng, có biết đâu rằng: “Mật ngọt chết ruồi”, “Những nơi cay đắng là nơi thật thà”. Nhớ xưa, cổ nhân lại chọn và lập một chức quan, đứng hàng tam phẩm, chuyên phản biện, can gián nhà vua, gọi là Gián nghị đại phu. Trên thích nghe can gián, dưới dám nói lời trung, đây là bí quyết trị quốc của người xưa đấy.

Sáu là, chọn cho công việc hay chọn chỉ vì người.

Vì việc chọn người, đặt bộ máy. Trải suốt xưa nay, nhìn khắp đông tây nam bắc, ở đâu và thời nào hễ tiến bộ cũng đều làm như thế cả. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh lập Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Ban chỉ có hai người, đó là Cụ Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng Ban và ông Cù Huy Cận. Mọi người hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh về điều đó, thì Người nói: việc tới đâu thì đặt người tới đó. Cụ Bùi đầy kinh nghiệm, chú Cận trẻ tuổi thì đi theo, để học việc. Sau này, việc nhiều thì bố trí thêm. Đông nhưng không mạnh, lại “Miệng ăn núi lở”, bộ máy không cát cứ, không nhóm lợi ích mới là chuyện lạ.

Bảy là, chọn cho công sự hay chọn cho phe cánh.

Thời phong kiến, “Một người làm quan cả họ được nhờ” đó là sự thực, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ… Cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được. Nhưng nay nếu làm vậy là tư túng – kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, tổ chức vì thế như nhà bồi giấy, không mưa cũng nát, không vò cũng tan.

Tám là, chọn cho cơ cấu hay chọn cho công việc.

Cơ cấu là hình thức, công việc là nội dung của việc chọn lựa, sắp đặt bộ máy. Nên công việc là quyết định, cơ cấu đứng hàng thứ, chỉ giữ phần quan trọng mà thôi. Bởi nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Thế mới thật sự quang minh lỗi lạc. Vì thế, không nệ mâm bát đủ đầy, không bỏ mặc người đói kẻ no, không để tài đức khuất thân mà công việc thì… bê trễ.

Như vậy, có thể thấy sự phân biệt bốn phép hay tám phép này cũng chỉ mang tính tương đối. Bởi lúc này, lúc khác có sự đan xen, chồng lấn, nên khó lòng tách bạch. Dù là bốn phép hay bốn mươi phép xem người tới tám phép hay tới tám mươi phép chọn người cũng chưa hẳn đã là đủ, nhưng với những người được trao quyền chọn người của bộ máy, trước hết phải làm tốt được 10 chữ: Trung thực – Khách quan – Dũng cảm – Trách nhiệm – Trong sạch./.

TS Nhị Lê – nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Những Thú Ăn Chơi Khác Người Của Vua Chúa Việt Xưa

Đại Việt sử ký toàn thư đề cập đến chuyện này như sau: Phàm ai có hươu trắng, hươu đen hay chim sẻ trắng, rùa trắng… đều đem dâng vua cả. Lúc ấy, có Đỗ Khánh là lính ở Tả Vũ Tiệp đem dâng con cá xương và con cá công sắc vàng, ông cho đấy là điềm lành, bèn xuống chiếu cho bề tôi chúc mừng.

Cáp môn sứ là Lý Phụng Ân nói rằng: “Cá là vật nhỏ mọn mà bệ hạ đã lấy làm điềm lành, vậy nhỡ sau này có người đem tới dâng con lân con phượng thì bệ hạ sẽ làm sao?”. Nghe lời ấy, vua mới thôi mê muội.

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, một người lính tên Vương Cửu ở Tả Hưng Vũ đem dâng vua một con rùa, trên mai có những vết hợp thành nét chữ. Vua liền xuống chiếu cho các học sĩ, nhà sư và đạo sĩ theo hình nét chữ để đoán. Họ tán ra thành tám chữ: Thiên thư hạ thị, thánh nhân vạn tuế (sách trời bảo cho biết rằng thánh nhân), nhằm nịnh nhà vua.

Truyền năm Lý Thần Tông 23, bỗng nhiên vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy, càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc bấy nhiêu, ngồi xổm chụp người, cuồng loạn, gầm gừ đáng sợ như chúa sơn lâm, phải nhờ Sư Nguyễn Minh Không chữa mới trở lại bình thường.

Những thú vui rợn người của Lê Long Đĩnh

Lê Long Đĩnh (986 – 1009) là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê, trị vì từ năm 1005 – 1009. Trong sử sách, ông được nhắc đến như là một kẻ dâm đãng, tàn bạo và độc ác, có những thú vui đẫm máu khiến người đời ghê sợ.

Đại Việt sử lược viết:

Phàm đánh trận, bắt được quân địch vua cho áp giải đến bờ sông. Lúc nước thủy triều rút xuống thì sai làm cái chuồng dưới nước, rồi đuổi tù binh vào trong chuồng. Khi nước thủy triều dâng lên, tù binh ngộp hơi thì hả miệng ra rồi uống nước mà chết. Lại bắt (tù nhân) treo lên cây cao rồi sai người ở dưới chặt cây.

Có khi vua đi chơi ở sông Chi Ninh, sông có nhiều thuồng luồng, bèn trói người ở một bên ghe, rồi cho ghe qua lại ở giữa dòng nước, khiến cho thuồng luồng nó sát hại đi. Còn phàm những con vật (nuôi để cúng tế) đem cung cấp cho nhà bếp, trước tiên phải sai người khiên vào để tự tay vua đâm chết đã, rồi sau mới giao cho người nấu bếp.

Lại khi, nhà vua đặt mía trên đầu bậc tu hành là đức Tăng thống Quách Mão mà róc, rồi giả vờ sút tay dao phập vào đầu Quách Mão chảy máu ra, vua cười rầm lên.

Hoặc đêm đến vua sai làm thịt mèo để cho các tướng vương xơi. Ăn xong vua đem đầu mèo bày ra, các tướng vương đều mửa thốc mửa tháo. Mỗi khi đến buổi chầu thì sai những tên hề ra nói leo lẻo luôn mồm để làm khỏa lấp lời những ai bẩm bạch về việc gì. Lại thấy kẻ giữ cung làm món chả thì đến cùng người tranh nhau mà ăn…

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng một số điều xấu của vua Lê Long Đĩnh chỉ là thêu dệt, nhằm tạo tính chính đáng cho việc hạ bệ nhà Tiền Lê trong sử sách.

Lý Cao Tông mê… phượt, mặc dân khốn khổ

Lý Cao Tông (1173 – 1210) tên thật là Lý Long Trát hay Lý Long, là vị vua thứ bảy của nhà Lý, cai trị từ năm 1176 – 1210. Theo sử sách, khi còn nhỏ ông là người ngoan lành, song khi lớn lên cầm quyền trị nước lại trở thành một kẻ ham chơi bời, tiêu phí sản nghiệp quốc gia cho những thú vui chơi vô bổ của vua.

Đặc biệt, Lý Cao Tông rất ưa vi hành, nhưng không phải là quan tâm muôn dân trăm họ, mà để thỏa chí tò mò, sự ham vui chơi của bản thân. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau: Vua ngự đi khắp núi sông, phàm ngự đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ… Vua xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực.

Khi trong nước đã loạn lạc, đường xá không thông, vua bèn sai làm hành cung Ứng Phong, Hải Thanh ở đầm Ứng Minh, hàng ngày cùng bọn cung nữ đi chơi bời làm vui. Lại lấy thuyền to làm thuyền ngự, lấy các thuyền bé chia làm hai đội, sai bọn cung nữ, phường tuồng chèo thuyền, vua dẫn bọn tả hữu bắt chước nghi vệ thiên tử như khi vua ngự đi chơi đâu vậy.

Vua còn lấy sáp ong bọc những tấm lụa và các vật quý thả xuống ao rồi sai người lội xuống mò lên giả làm đồ vật dưới Long Cung đem dâng. Văn võ bá quan thấy vua ăn chơi vô độ đều sợ hãi không ai dám lên tiếng.

Vào những năm trị vì cuối cùng, đất nước đói kém, người chết đói hàng loạt, vua vẫn rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt…

Mê đỏ đen, Trần Dụ Tông biến triều đình thành chiếu bạc

Trần Dụ Tông (1336 – 1369), tên thật là Trần Hạo, là vị vua thứ 7 của nhà Trần, cai trị từ năm 1341 – 1369. Ông được sử sách ghi nhận như một vị vua chỉ khoái hưởng lạc giữa lúc nền chính trị sa sút và nhân dân cùng cực đói khổ.

Vào giai đoạn cuối của nhà Trần, nạn cờ bạc, rượu chè rất phát triển. Đến đời Trần Dụ Tông thì tệ nạn không đã tràn cả vào trong cung đình, và nhà vua chính là người đã cổ súy cho điều này.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Dụ Tông đã cho gọi các nhà giàu trong nước vào cung đánh bạc làm vui. Một tiếng bạc đặt tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã giàu ngàn quan rỗi. Quan lại thì như Hành khiển Trần Khắc Chung, cùng Học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đánh bạc, có khi đến hai, ba ngày, đêm này qua ngày khác, cùng ngồi ngay ở bàn mà ăn cháo không nghỉ lúc nào, được thua chỉ có một, hai quan tiền mà dụng tâm rất khổ.

Sử gia thời Lê Phan Phu Tiên đã phê phán thú vui này của Vua Trần Dụ Tông như sau: Dụ Tông công nhiên làm bậy, gọi những nhà giàu vào cung đánh bạc, rồi sai người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa. Cuối cùng vì tệ đánh bạc mà mất nước.

Bên cạnh thú cờ bạc, vua Trần Dụ Tông còn có các thú chơi xa xỉ mà các sử gia đương thời nhận xét là “Vua phương Bắc ăn chơi cũng không bằng”. Đó là xây vườn nuôi chim thú quý, chở nước biển đổ xuống hồ nuôi các thứ hải vật như đồi mồi, cua, cá biển…

Kinh Nghiệm Nuôi Gà Chọi Cho Người Mới Chơi

1. Chế độ dinh dưỡng cho gà chọi.

Để giúp gà khỏe mạnh và nhanh lớn, có sức khỏe tốt thì cần quan tâm đến vấn đề dinh dưỡng cho gà. Thức ăn chính của gà là các loại hạt ngũ cốc. Ngoài ra nên bổ sung thêm các loại thức ăn giàu dinh dưỡng như thằn lằn, giun, dế…

Nên cho gà ăn làm hai bữa trong ngày vào 9 giờ sáng và 5 giờ chiều, mỗi lần cho ăn khoảng 3/4 diều.

2. Thức ăn cho gà chọi.

Khi gà đến giai đoạn có thể cho chiến đấu thì cần đặc biệt lưu ý đến thức ăn chăn nuôi của gà. Thóc cho gà chọi ăn cần được đãi sạch vỏ chấu rồi cho vào nước ngâm khoảng 8-12 tiếng rồi xả bằng nước sạch sau đó cho ra giá để ráo. Trộn thóc vơi men tiêu hóa và các loại vitamin mua ở các hiệu thuốc thú y và thực hiện đúng liều lượng được bác sĩ thú y tư vấn. Mỗi ngày cho gà uống nước hai lần vào sáng và tối trước khi gà đi ngủ, mùa đông không cho uống nước.

Cho uống 2-3 viên thuốc bổ nhóm B mỗi tuần, cho ăn thêm vài nhánh tỏi tươi giúp gà tránh gió và tăng cường tiêu hóa.

Buổi sáng cho gà ăn thóc, buổi chiều cho ăn rau xanh hoặc giá đỗ, buổi tối trước khi gà đi ngủ cho ăn thóc sau đó cho uống nước.

3. Cách chăm sóc gà chọi.

Khi gà chọi trưởng thành bạn có thể cho chúng tham gia chiến được. Tuy nhiên chỉ nên cho chúng chọi nhau vào khoảng thời gian từ tháng chạp đến tháng 4 âm lịch. Lý do là sau tháng 4 gà sẽ thay lông và thời gian này chúng không thể chiến đấu bình thường được.

Thường xuyên tắm rửa sạch sẽ cho gà. Khi lông gà khô ráo thì ôm bóp vào nghệ cho chúng, cách làm này giúp cho thịt con gà săn lại, tăng khả năng chống đỡ được các đòn địch.

4. Cách huấn luyện cho gà chọi.

Kinh nghiệm huấn luyện của người nuôi ảnh hưởng quan trọng đến khả năng chọi của gà. Không nên nuôi nhốt gà quá lâu mà nên thả chúng ra ngoài để cho chúng được linh hoạt, cơ bắp khỏe mạnh. Cần cho chúng luyện tập hàng ngày để chúng biết cách ra đòn tấn công và phòng thủ.

Cập nhật thông tin chi tiết về Chính Thức Cho Phép Người Việt Được Chơi Casino trên website Raffles-design.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!