Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn Mẫu Tả Chú Gà Chọi, Văn Mẫu Hay, Chọn Lọc # Top 5 View | Raffles-design.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Bài Văn Mẫu Tả Chú Gà Chọi, Văn Mẫu Hay, Chọn Lọc # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Bài Văn Mẫu Tả Chú Gà Chọi, Văn Mẫu Hay, Chọn Lọc được cập nhật mới nhất trên website Raffles-design.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề bài: Tả chú gà chọi

Phần 1: Dàn ý tả chú gà chọi

Phần 2: Bài văn mẫu Tả chú gà chọi

Bài làm:

Nhà em có nuôi rất nhiều con vật như chó, mèo, bò… nhưng có lẽ con vật mà em yêu quý nhất đó là chú gà chọi tinh khôn ở khu vườn nhà.

Chú gà chọi rất to khỏe, nặng khoảng gần bốn kilogram. Từ khi bé xíu đến lúc lớn, chú ta đều gây ấn tượng với mọi người bởi vẻ bề ngoài của mình. Vì là gà chọi nên chú có bộ lông thưa hơn nhiều so với những con gà thường khác, nhưng chú lại có một vóc dáng lực lưỡng như một lực sĩ với những cơ thịt đầy mình. Chú luôn kiêu hãnh, ngẩng cao chiếc đầu đỏ tía, nhìn mọi thứ xung quanh bằng đôi mắt đen láy tinh tường. Đôi cánh của chú dài mà nhỏ, ẩn nấp sau những chiếc lông tơ thưa thớt. Chú có một đôi chân thoăn thoắt với hai chiếc cựa cứng và nhọn được bao bọc bởi một lớp da vàng óng. Bộ lông đuôi sặc sỡ càng tô thêm vẻ đẹp kiêu hãnh, làm chú nổi bật nhất trong các “thành viên gà” trong vườn.

Cũng như bao chú gà chọi khác, chú luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình vào những buổi sáng sớm. Chú gà chọi – chiếc đồng hồ báo thức không “cài đặt” trước, luôn đánh thức mọi người trong gia đình em để bắt đầu một ngày mới. Chú thường chọn những vị trí cao, đặc biệt là đống rơm, sáng nào chú cũng ở đó, kéo dài chiếc cổ đỏ tía của mình mà ngân vang tiếng gáy “ò..ó..o..o”. Ngày mới bắt đầu, chú cũng đi tìm thức ăn lấp đầy cái dạ dày của mình. So với các con gà khác, dáng đi của chú luôn thể hiện sự tự tin, bước vững từng bước tìm “con mồi”. Khi em cho đàn gà ăn, thì chú gà chọi đấy luôn dẫn vị trí dẫn đầu chạy đến khay thức ăn, chú cũng sẵn sàng “chọi”, mổ những con gà khác nếu dành phần ăn của chú. Kết thúc một ngày, chú cùng với những người bạn khác lại tìm về chốn ngủ trên những chiếc ván cao trong vườn.

Chú gà chọi không chỉ là một chiếc đồng hồ báo thức vô cùng có ích, mà chú còn là một người bạn thân thiết của gia đình em. Em sẽ luôn yêu quý và chăm sóc chú gà chọi này thật tốt.

Để rèn luyện kĩ năng viết bài văn miêu tả đồng thời củng cố, mở rộng vốn kiến thức về những đồ dùng, sự vật sung quanh, bên cạnh bài Tả chú gà chọi, các em học sinh có thể tham khảo và tập viết với những đề bài như: Tả con mèo mướp, Tả con chim bồ câu, Tả một con vật nuôi trong nhà, Tả con chó nuôi trong nhà.

https://thuthuat.taimienphi.vn/ta-chu-ga-choi-46386n.aspx

Kể Về Lễ Hội Chọi Gà Hay Nhất (2 Bài Văn Mẫu)

Khoahoc.VietJack.com giới thiệu 2 bài văn mẫu Kể về lễ hội chọi gà hay nhất, chọn lọc giúp Thầy/Cô và các bậc phụ huynh giúp các em làm tốt bài Tập làm văn lớp 3.

Kể về lễ hội chọi gà – Bài văn mẫu 1

Trong các lễ hội mùa xuân, em thích nhất là trò chơi chọi gà. Thường thì gà chọi là những chú gà trống, to cao khỏe mạnh, có hai cặp giò chắc nịch, đầy cơ bắp, với hai cái cựa vừa dài vừa nhọn. Cả người con gà mang một màu đỏ tía, chúng có khá ít lông, những chú gà chiến này được chủ nhân chăm sóc rất kỹ càng để chuẩn bị cho những trận sống mái với gà chiến của đối thủ. Người ta chọn một khu đất trống, sạch sẽ làm sân chọi, người chơi mang gà của mình đến, rồi bốc thăm quyết định lượt thi và đối thủ. Người đến xem có đủ già, trẻ, lớn, bé, quây thành một vòng tròn nhỏ như lớp rào chắn cho sân thi đấu. Bắt đầu trận chọi gà hai bên đem gà chọi của mình ra giữa sân và thả chúng ra, những người xem ra sức cổ vũ, hò hét để kích thích cái máu chọi của hai con gà, chúng bắt đầu lao vào chọi nhau, lúc thì dùng mỏ để mổ đối phương, lúc thì dùng chân đá, đòn nào đòn đấy dứt khoát, mạnh mẽ. Cho đến khi một con gà có dấu hiệu yếu thế, bị bên kia hạ gục thì trọng tài sẽ cho dừng trận đấu và quyết định thắng thua, sau đó cho hai bên mang gà của mình về chăm sóc. Đây là một trò vui khá hấp dẫn và trở thành nét văn hóa đặc sắc trong nhiều lễ hội, tuy nhiên hiện nay cũng có một số tiêu cực từ việc chơi chọi gà, cần phải tích cực khắc phục, tránh làm xấu đi hình ảnh của các lễ hội.

Kể về lễ hội chọi gà – Bài văn mẫu 2

Em rất thích lễ hội chọi gà và đấu vật ở đình làng em. Lễ hội chọi gà và đấu vật được tổ chức thường niên vào dịp 28 tết. Ấn tượng nhất là màn chọi gà đầu tiên. Từ sáng sớm tinh mơ của ngày 28 âm lịch, những người ở trong hội chọi gà đã ôm những chú gà của mình đi tới đình làng. Những chú gà chọi, mào và cổ đỏ lừ, mắt sắc bén như chỉ muốn nhảy ngay vào cuộc để tranh đấu với những chú gà khác. Những người khác, không mang gà đi chọi nhưng cũng đi từ sớm để chọn cho mình một chỗ thật hợp lí để xem trận đấu rõ nhất. Trận đầu bắt đầu với màn đấu của hai chú gà trống. Hai chú gà rất hăng chiến, sau một hồi đấu, chú gà mang số 02 đã giành chiến thắng. Khi lễ hội bắt đầu, mọi người tán dương, rồi hò vang, rồi cổ vũ cho những chú gà thắng cuộc. Còn những người khác, đánh trống dồn dập như tạo thêm không khí cho buổi lễ thêm náo nhiệt. Đây cũng là lúc những hàng quán được mùa, nào là chong chóng, những hàng nước, kẹo bánh được sắp xếp một góc để người đi xem hội có thể nghỉ ngơi.

Tất cả tạo nên một không khí náo nhiệt đậm chất truyền thống của quê hương.

Top 10 Bài Văn Mẫu Thuyết Minh Về Cây Tre Việt Nam Lớp 9 Chọn Lọc

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 1

Nhắc đến cây tre là nhắc đến truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Đời sống người Việt Nam dù thay đổi thế nào, phát triển ra sao thì chúng ta cũng không thể nào quên được những năm tháng hào hùng của dân tộc mà cây tre là một phần gắn bó không thể thiếu. Nếu năm xưa không có tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà chung thì có lẽ không có nước Việt Nam như ngày hôm nay.

Cây tre có cấu tạo đơn giản nhưng công dụng của nó đối với đời sống của người Việt Nam vô cùng tuyệt vời. Thưở xa xưa, Thánh Gióng dùng tre để đánh giặc, thời Ngô Quyền, ông dùng tre để đóng cọc tiêu diệt quân đội Nam Hán. Thời bình, người dân dùng tre để làm nhà, lợp mái che mưa che nắng cho cả gia đình. Dân dần con người biết tận dụng cây tre vào nhiều việc có ích hơn. Với đặc tính mềm dẻo, cây tre được vót thành que nan đan rổ, đan rá cho các bà các cô đựng đồ đem ra chợ bán. Tre hóa thành những cái cán cày, cán quốc theo chân người đàn ông xuống ruộng, lên rừng. Rồi tre trở thành những món đồ hàng cho trẻ con chăn trâu cùng chơi chẳng hạn như trái bóng kết từ thân tre. Dần dần, người Việt ạo ra được nhiều sản phẩm hơn nữa từ cây tre như đôi guốc, rồi những vật dụng cao cấp như đồ mây tre đan. Những món đồ này không chỉ bán cho người Việt mà còn được xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Nhờ vậy mà đời sống của người Việt Nam ngày càng được cải thiện.

Hình ảnh cây tre chính vì vậy mà lúc nào cũng gắn liền với hình ảnh của người Việt Nam. Cái dáng thẳng đứng của tre tượng trưng cho sự anh hùng, bất khuất. Tre mọc thành lũy, thành thì tượng trưng cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Chính nhờ có sự đoàn kết này mà chúng ta đã vượt qua được bao nhiêu năm nô lệ, chiến thắng được những kẻ thù mạnh và hung hãn hơn chúng ta gấp nhiều lần. Cây tre cũng vậy, dù gặp phải bao trận phong ba, bão táp nhưng cây tre vẫn luôn đứng thẳng để canh giữ cho sự bình yên của làng quê. Hình ảnh tre già măng mọc còn lạ sự nối tiếp thế hệ đời này qua đời khác tiếp tục giữ gìn và dựng xây đất nước.

Cây tre vì vậy mà luôn được gọi là cây tre Việt Nam. Là một loài cây thân thuộc không thể thiếu trong truyền thống và trong văn hóa của người Việt. Biểu tượng cây tre là một biểu tượng bất diệt.

“Tre kiên cường, tre bất khuất…tre anh hùng lao động…”. Từ bao đời nay tre gắn bó mật thiết với hình ảnh của làng quên Việt Nam hàng ngàn năm nay, là biểu tượng luôn in sâu trong tâm trí của người Việt ta.

Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.

Cùng với cây đa, bến nước, sân đình một hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẵn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.

Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng_ hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc n xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn công trong các cuộc chiến. Những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập-Tự do cho Tổ Quốc. “Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…”

Cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích, đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của Nguyễn Duy,… Tre góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến. Nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như: đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Tre ngày nay còn là nguyên liệu làm ra các sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách nước ngoài ưa thích: những mặt hàng dùng để trang trí những nơi sang trọng: đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre.

Bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước, tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam.

Bắt gặp hình ảnh những khóm tre trong cuộc sống hiện đại ngày nay, quả thực, chẳng dễ dàng. Nhưng luôn in đậm trong tâm trí của mỗi người con đất Việt sẽ luôn là những khóm tre xanh tươi tốt, luôn hướng lên trời cao, hướng về một tương lai tươi sáng.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 3

Việt Nam rừng vàng biển bạc, tài nguyên nước ta vô cùng phong phú, khắp nơi đều có muôn vàn những loại cây thảo mộc, cây xanh đa dạng khác nhau. Chính vì thế nước Việt Nam “xanh muôn ngàn cây lá khác nhau” Từ núi cao cực Bắc tới sông nước Cà Mau, mỗi vùng sinh thái đều tươi xanh những loài thảo mộc, hoa trái đặc trưng. Nhưng thân thương xiết bao, khi đâu đâu cũng bốn mùa xanh những lũy tre tươi tốt. Tre làm bạn với làng, bản, xóm, thôn, từ ngàn xưa, bóng tre xanh âu yếm đã phủ đầy nếp sống thanh cao, cần mẫn của người dân Việt ta. Cây tre cao, thẳng thắn như vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết của tâm hồn người dân Việt Nam. Có lẽ, cây tre xanh xanh đã trở thành người ban thân thiết của nông dân và nhân dân Việt Nam, sống bền bỉ, dai dẳng và âm thầm làm êm dịu cho vẻ đẹp tâm hồn người dân đất Việt.

Tre là loại cây thân gỗ, cao vút, thân nhỏ khoảng bằng cánh tay người trưởng thành. Xung quanh thân cây có những chiếc gai nhọn, sắc. Tre thường mọc cành và lá ở phần ngọn, lá tre xanh xanh, thon thon như chiếc thuyền nan. Trên lá có những đường gân song song trông rất duyên dáng. Tre già măng mọc, cứ như thế tre luôn sinh sôi phát triển. Tre “mộc mạc”, “nhũn nhặn” mà nhẫn nại không chê đất cằn, sá gì sương gió. Tre “ngay thẳng, thủy chung, can đảm”, giàu lòng vị tha, bao dung, đùm bọc. Tre “thanh cao, giản dị, chí khí như người”. “Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm”. Chính vì thế mà dù đất nước có phát triển, ngày càng tiến bộ hiện đại thì bóng tre xanh vẫn sống trong lòng người Việt Nam ta không bao giờ mất đi.

Tre ăn ở với người kiếp kiếp. Từ khi còn ấu thơ chúng ta vẫn nằm trong chiếc nôi tre, võng tre ầu ơ trong tiếng ru của bà của mẹ lớn lên từng ngày đó thôi. Đến khi đã gần đất xa trời, về với tổ tiên thì cây tra lại là linh hồn gắn với chiếc xe đưa tiễn ta trên đoạn đường cuối cùng. Tre xanh xưa kia còn là cánh tay đắc lực giúp người nông dân làm các công cụ bằng tre, các đồ vật như làn, rổ, rá bằng nứa rất dẻo dai và bền bỉ. Tre xanh đi vào những câu ca dao, những câu thơ rất điệu rất duyên đằm sâu vào tâm hồn người Việt Nam ta:

“Lạt mềm gói bánh chưng xanh Cho tre lấy trúc cho anh lấy nàng”.

Như thế tre đã sống với tất cả tấm lòng và tâm hồn thanh ao, chân thật cùng người dân ta, cả khi chiến tranh, gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh giữ đồng lúa chín. Đến khi hòa bình, tre được dùng để làm các đồ nội thất trong gia đình. Tre là loại cây mộc mạc, đơn sơ, không phải vẻ sang trọng, khí phách quân tử như những cây tùng, cây bách cũng không cuốn hút, hấp dẫn lòng người bởi hương thơm, nhưng tất cả những gì cây tre mang lại là nguồn dưỡng tảo tần đã gắn bó với người dân ta đời đời kiếp kiếp. Chính vì thế, với cây tre xanh, không chỉ đơn thuần là loại cây vô tri vô giác nữa mà đó là cây linh hồn của người dân Việt Nam. Dưới bóng tre xanh, tâm hồn ta được tỏa bóng mát, được êm dịu và lắng nghe những khúc nhạc du dương của đồng quê, của tiếng diều sáo vi vu, đó chính là những sợi nhớ, sợi thương của quê hương mà cây tre xanh xanh đã giăng mắc trong lòng mỗi người dân Việt Nam.

Cây tre là biểu tượng cho phẩm chất đặc sắc nhất của con người Việt Nam ta: đoàn kết, thủy chung, thanh cao, bất khuất. Là đức tính kiên cường ẩn tàng trong khả năng thích ứng dẻo bền vô hạn trước mọi tai họa thiên nhiên cũng như mọi biến thiên, bão táp và bi kịch lịch sử, cả do đến từ mọi phía lẫn do nội sinh, để trường tồn và phát triển. Cùng với dân tộc ta, cùng với lịch sử phát triển của dân tộc, cây tre xanh âm thầm bền bỉ nuôi dưỡng những tinh hoa của đất Việt, hun đúc nên những phẩm chất được bạn bè năm chau mến mộ. Cây tre xanh là những gì thiêng liêng và cao quý vô ngần của tâm hồn người Việt Nam xưa và nay chưa bao giờ mất đi, chưa bao giờ tiêu biến, làm nên những nét rất riêng cho văn hóa, linh hồn quê hương.

Tuổi thơ ta với tiếng diều sáo vi vu, với tiếng võng kéo cà kẽo kẹt cũng đi lên từ tre xanh xanh ngát. Tre xanh là vẻ đẹp tâm hồn, là nét đẹp truyền thống rất Việt Nam rất truyền thống rất nền nã của nhân dân ta. Có lẽ sau này, dù công nghiệp hóa hiện đại hóa có phát triển mạnh mẽ như vũ bão chăng nữa thì cây tre xanh vẫn mãi mãi là người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 4

Một trong những loài cây có sự gắn bó lâu đời và mật thiết đời sống, văn hóa của dân tộc Việt Nam phải kể đến là cây tre. Khi nhắc đến cây tre, chúng ta không khỏi tư hào gọi là cây tre Việt Nam như sự thừa nhận, khẳng định cây tre là một phần không thể thiếu được của nước nhà.

Cấu tạo thì có vẻ đơn giản như vậy nhưng cây tre có rất nhiều công dụng, là một phần rất quan trọng trong đời sống của bà con nông dân. Dân ta xưa kia chưa thể xây nhà gạch, mái ngói, tre trở thành chất liệu lợp mái, lát vách che năng che mưa cho bao gia đình. Tre còn được tận dụng trong nghề thủ công, đan lát, trở thành những chiếc rổ, chiếc rá xinh xắn, tiện dụng theo các cô, các chị ra chợ, ra đồng. Tre làm cán cuốc, cán cày một nắng hai sương với người nông dân để được những mùa gặt bội thu. Tre gắn bó trở thành những thứ đồ hàng cho tụi trẻ chăn trâu, trở thành cái điếu cày làm bạn tuổi già với các cụ già,… Không chỉ thế, các chị, các mẹ còn trở nên duyên dáng hơn nhiều trong chiếc guốc tre thoải mái. Tre đã trở thành người bạn thân thiết với nông dân ta từ xưa đến nay.

Khi thời bình, tre trở thành những vật dụng thường ngày của người nông dân nhưng vào lúc nước ta gặp nỗi gian truân, tre lại trở thành một vũ khí vô cùng lợi hại của dân ta. Ở đó, “tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Trong lúc mà dân ta chưa có vũ khí hiện đại, vũ khí sử dụng đều phụ thuộc cả vào thiên nhiên. Tre với tính chất dẻo dai mà cứng rắn đã trở thành một vũ khí vô cùng lợi hại của dân ta. Từ ngày còn bé ta đã được biết đến truyền thuyết về vị anh hùng Thánh Gióng, bẻ tre bên đường, đánh cho quân xâm lược không còn manh giáp. Hay sự kiện lịch sử quan trọng, Ngô Quyền dùng cọc tre và lợi dụng thủy triều đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam. Đó là minh chứng rất cụ thể cho vai trò to lớn của cây tre trong những trận chiến khốc liệt dành độc lập dân tộc.

Tre cũng mang trong mình những ý nghĩa biểu tượng rất đáng tự hào, tiêu biểu cho những đức tính tốt đẹp của dân tộc. Tre luôn mọc thành lũy, thành hàng chứ không bao giờ mọc một mình, đó là tinh thần đoàn kết, đồng lòng, là một truyền thống quý báu từ bao đời của cha ông. Tre mọc thẳng, mọc cao, không bao giờ mọc nghiêng, cùng sự dẻo dai dễ sống của cây là biểu hiện rõ nhất cho sự kiên cường, bất khuất, giống như những con người Việt Nam dù phải chịu bao nhiêu sương gió, nhọc nhằn hay bị áp bức vẫn không mất đi sự cao quý trong tâm hồn và sự kiên cường trong tính cách. Đó đều là những phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, nên mới nói, nhắc đến cây tre là nhắc đến con người Việt Nam. Bởi vậy, cả dân tộc đều gọi tre là cây tre Việt Nam.

Tre thật đẹp, thật có ích. Tre là biểu tượng không thể phai đổi, không thể mất đi, tre già măng mọc, thế hệ này sẽ tiếp nối nhựa sống của thế hệ kia, sẽ còn mãi đến mai sau. Dù là chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống trở nên hiện đại hơn, nhiều loại vật liệu được sinh ra thay thế cho tre nhưng cây tre vẫn mãi giữ một vị trí quan trọng trong tâm hồn người Việt và mãi là tài sản vô giá của cả dân tộc.

Trên mảnh đất Việt Nam của cha ông, tre và người và đã gắn bó, cùng đồng cam cộng khổ, nâng đỡ nhau qua bao năm tháng lịch sử có giá trị to lớn và vĩnh hằng. Hình ảnh cây tre đã trở thành hình ảnh không thể thiếu trong những trang văn hóa bất diệt của dân tộc, là người bạn lớn đáng tôn vinh của cả dân tộc.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 5

Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.

Tre là một loại cây khẳng khiu, có nhiều công dụng. Lá tre thường được người miền Nam lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sâu bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ông tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa.

Tre có một số loại thông dụng như: tre gai, tre xanh, tre ngà, tre rừng… Bên cạnh đó, nó còn có anh em bà con như: lồ ô, trúc, tầm vông… Tre xanh lúc còn sống có màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 – 8cm. Cao không đến 10m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm.

Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.

Hình ảnh cây tre dã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ. Chẳng hạn như:

“Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo Tre bao nhiêu lá bấy nhiêu cần cù Nghiêng mình trong gió tre đu Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành…”

(NGUYỄN DUY)

Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt:

“Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân”

Người ta còn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau:

“Tháng tám tre non làm nhà Tháng năm tre già làm lạt”

Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau:

“Tre già là bà gỗ lim”

Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: “Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc đến”. Và từ đó người xưa còn rút ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người: “Tre già, măng mọc” tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành, một thứ không thể thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: “Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”.

Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: “Chẻ tre nghe Gióng”.

Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua… Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt non, béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được xắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn “bắt mắt”, nấu nhanh và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta xắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn vừa mát, kèm theo một vị ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt Nam.

Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Bằng chứng là những bộ salon làm bằng mây và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng xuất khẩu đắt giá. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đốn cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy!

Những bài văn mẫu Thuyết minh về cây tre Việt Nam

Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc biệt với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ về kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre chúng tôi.

Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất cứ nơi đâu, đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tôi nghiêng mình trên những con đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, rồi dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng…

Khác với các loài cây khác, từ khi mới bắt đầu sinh ra, chúng tôi đã thể hiện sự ngay thẳng, điều đó các bạn có thể thấy ngay khi nhìn những mầm tre mọc thẳng tắp và dù trong bất cứ môi trường nào chúng tôi cũng vẫn vươn lên để sống mạnh mẽ và xanh tốt. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ ,bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.

Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa theo gió, dang những cành tre che mát cho đàn con – những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sông được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:

“Ở đâu tre cũng xanh tươi

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu, người Việt đã ví chúng tôi với phẩm chất quật khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tôi đã giúp ông Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chính chúng tôi đã dìm chết bao tàu chiến của địch khiến cho chúng khiếp sợ phải thua cuộc. Thuở đất nước còn chưa có vũ khí hiện đại như bây giờ, chúng tôi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù. Và trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chông nhọn hoắt sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được phong danh hiệu anh hùng bất khuất.

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu”…

Không chỉ trong đánh giặc giữ nước, loài tre nhà chúng tôi còn rất có ích trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi khi về thăm một thôn xóm, một bản làng nào bạn cũng sẽ thấy vòng tay của chúng tôi dang rộng, ôm trọn và toả bóng mát cho cho cả dân làng. Trong vòng tay của chúng tôi, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặp cỏ. Những trưa hè, chúng tôi thật hạnh phúc khi được ngắm những khuôn mặt trẻ thơ say nồng giấc ngủ trong tiếng võng kẽo kẹt dưới khóm tre. Hơn thế chúng tôi còn là những vật liệu để bà con dựng nhà, những ngôi nhà được làm từ tre rất mát mẻ và sạch sẽ.

Dưới bóng chúng tôi là cả một nền văn hoá lâu đời đang từng ngày được nâng niu và gìn giữ. Trong đời sống sinh hoạt, chúng tôi còn làm ra những đồ dùng thân thuộc với mỗi người: đó là đôi đũa, là chiếc chõng tre, chiếc giường tre. Đối với mỗi gia đình nông dân, tre tôi là người bạn vô cùng thân thiết. Ngoài ra cây danh, nứa, một trong những họ nhà trẻ còn giúp con người chẻ lạt buộc nhà, nứa giúp cắm sào làm giàn cho bầu bí leo quấn quýt vào nhau. Tre còn gắn với tuổi già, cho họ chiếc ống điếu hút thuốc làm vui.

Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích. Dưới những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ còn trò gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi xa.

Tre chúng tôi còn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc, làm vơi đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn.

Ngày nay loài tre của chúng tôi còn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở Pháp đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre chúng tôi cũng vẫn sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền – đức tính Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 7

Không biết tự bao giờ cây tre đã trở thành người bạn thân thiết của người dân Việt Nam. Tre là hình ảnh quen thuộc của không gian làng quê Việt Nam, là bạn của nhà nông, là biểu tượng cao quý cho một dân tộc quật cường. Bởi vậy mà từ lâu tre đã khắc sâu vào tiềm thức mỗi người, để mỗi khi nhắc về Việt Nam thân thương là người ta lại nhớ ngay đến cây tre ” thân gầy guộc lá mong manh “.

Không ai biết rõ cây tre có tự bao giờ, có lẽ là từ rất lâu, rất lâu. Người ta chỉ thấy rằng cây tre đã gắn bó với dân tộc mình từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, từ khi người anh hùng Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân ra khỏi bờ cõi, từ khi Ngô Quyền cắm cọc tre trên sông Bạch Đằng đã tiêu diệt quân Nam Hán và không biết bao nhiêu chiến công nhờ cây tre nhỏ bé tạo dựng nên.

Cây tre được phân bố khắp nơi từ miền Bắc vào miền Nam, từ miền xuôi lên miền ngược, đâu đâu ta cũng thấy những lũy tre xanh rờn, rì rào trong gió ngàn, tỏa bóng râm mát ôm trùm đường làng ngõ xóm thân quen. Họ hàng nhà tre cũng rất là phong phú, đa dạng, gồm nhiều loại như tre Đồng Nai, tre Việt Bắc, trúc Lam Sơn, nứa, vầy rồi dang, hóp, lạt…

Khác với những loài cây khác, tre có những đặc điểm rất độc đáo, khác biệt. Ngay từ khi còn là một mầm măng tre đã nhọn hoắt như cái chông, cứ hiên ngang mà đâm thẳng lên đón gió, đón nắng của trời. Tre là loài cây dễ trồng, không kén chọn các điều kiện tự nhiên. Dù cho đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt thì tre vẫn luôn xanh tốt lạ thường. Thời gian trôi đi, mầm măng nhỏ, yếu ớt ngày nào đã trở thành cây tre xanh, cứng cáp và dẻo dai. Rễ tre là loại rễ chùm, bám rất sâu và chắc vài đất giúp cây luôn đứng vững trước mọi bão tố. Thân tre gầy guộc, hình ống rỗng và khoác lên mình bộ áo màu xanh thẫm. Trên thân tre chia thành các đốt, khi tre càng lớn thì các đốt càng dài. Từ thân tre đâm ra tua tủa biết bao nhiêu là cành lá. Lá tre nhỏ, thon dài, xanh một màu xanh mơn mởn với những đường gân ở mặt sau lá. Mỗi khi có làn gió thoảng qua, vài chiếc lá lại lìa cành, chao liệng trên không trung rồi đáp xuống mặt nước như những chiếc thuyền nan tí hon.

Tre không mọc đơn lẻ mà mọc thành bụi, thành lũy. Từng khóm tre xanh rì quanh xóm làng đã ôm ấp từng ngôi nhà, tỏa bóng mát khắp nơi nơi. Cây tre còn là hình ảnh không thể thiếu của làng quê Việt Nam. Chắc hẳn sâu trong tâm trí mỗi người đều ghi dấu hình ảnh từng đàn trâu thong thả nhai rơm dưới gốc tre làng xanh mát. Dưới bóng mát của tre còn là nơi vui chơi lí tưởng của bọn trẻ con. Chúng nô đùa, kể chuyện với những tiếng cười giòn tan, trong sáng và ngây thơ. Rồi tre cũng làm nên những trò chơi thú vị của tuổi thơ như đan vòng tay bằng búp tre, chiếc hóp cho các bạn nam… Các cụ già thì ngồi dưới gốc tre phe phẩy chiếc quạt nan lại bàn đôi ba câu chuyện thế sự, về việc nhà, việc làng. Chiếc điếu cày phì phèo điếu thuốc cũng được làm từ tre, chiếc chõng- nơi ngồi nhàn đàm của các cụ ta cũng từ tre mà ra.

Trong lao động, tre là cánh tay hỗ trợ đắc lực cho người nông dân. Từ thân tre nhỏ gọn mà cứng cáp, người ta chế tạo được biết bao công cụ hữu ích như cán cuốc, cán cào… Rồi từ bàn tay khéo léo của những người nghệ nhân mà từ cây tre thô mộc được gọt giũa thành những đôi đũa đẹp đẽ, những đồ mĩ nghệ có giá trị thẩm mĩ được xuất khẩu sang nước ngoài mang lại những nguồn lợi kinh tế lớn.

Trong chiến đấu tre còn là người đồng chí, đồng đội quả cảm của dân tộc ta. Từ thời trung đại, tre đã cùng dân ta góp nên bao chiến thắng vang dội rồi đến thời kì kháng chiến chống Pháp chống Mĩ tre lại góp công mình diệt giặc. Những vũ khí thô sơ như chông tre, gậy tre, cán cuốc, cán cày… mà cũng đã làm nên những chiến thắng lừng lẫy năm châu. Tre giống như người lính tiên phong giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre sẵn sàng hi sinh để bảo vệ dân tộc ta.

Cây tre đã trở thành biểu tượng cho con người Việt nam từ sự ngay thẳng, kiên chung đến sự dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì dân vì nước. Cuộc sống ngày càng đổi thay và hiện đại nhưng mong rằng cây tre sẽ cùng song hành với người Việt Nam trên mọi chặng đường.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 8

Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược.

Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá… bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…

Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.

Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.

Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre VN: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng…”

“Tre xanh, xanh tự bao giờ

Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m, ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”

Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.

Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Ưt ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng : đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre.

Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng : “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước_tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên ường, bất khuất của người Việt Nam.

Thuyết minh về cây tre Việt Nam – Bài làm 9

Hình ảnh người nông dân, đồng ruộng, con trâu đã gắn liền với lũy tre làng từ hàng nghìn năm nay! Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Tre xanh giúp người dân làm nhà dựng cửa, vỡ ruộng khai hoang, tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp. Họ nhà tre gồm: nứa, vầu, trúc, luồng, giang… đâu đâu cũng có luỹ tre xanh rì rào ẩn hiện. Rặng tre xanh là chiến luỹ bảo vệ làng mạc, thôn xóm, đồng thời tre ôm vào lòng mình tình thân thương của bà con chòm xóm từ đời này qua đời khác, chắn gió che mưa cho con người. Ta có thể thấy, tre gắn bó thân thiết với con người trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ thời chiến tranh tre cùng ta đánh giặc gìn giữ độc lập chủ quyền, làm rạng danh cho non sông, đất nước cho đến những vật dụng quen thuộc trong gia đình ở thời bình. Hơn thế, tre đã đi vào thơ ca như một hình tượng bất hủ:

Xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi Ở đâu tre cũng xanh tươi

Lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc, ta thấy hình ảnh cây tre sát cánh cùng với người dân chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm trong truyền thuyết Thánh Gióng từ đời vua Hùng Vương thứ 6. Thánh Gióng là một hình tượng tiêu biểu, đại diện cho khí phách Việt Nam. Mới 3 tuổi đã biết đánh giặc, khi gậy sắt gẫy, Gióng đã tự lấy tre làm vũ khí để tiêu diệt quân thù, đánh đuổi giặc Ân. Và không biết tự bao giờ, cây tre và con người Việt Nam đã trở thành đôi bạn chiến đấu thân tín, keo sơn..Tre vốn cùng ta làm ăn lại cùng ta đánh giặc. Buổi đầu không một tấc sắt trong tay, tre là vũ khí, từ chiếc gậy tầm vông, gậy tre, chông tre kiên cường chống lại sắt thép của quân thù, tre còn làm hầm ngụy trang và giữ bí mật… Tre bao bọc, che chở cho nguời con Việt trong những đêm dài hành quân ra trận. Rừng là nhà, lá tre nứa làm áo ngụy trang, đất làm giường, nứa tre làm gối, tre đã cùng người lập nên những chiến công vang dội, hiển hách.

Cho dù cát sỏi đá vôi bạc màu

Những hiện vật thể hiện mối quan hệ giữa tre và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc còn được lưu giữ rất nhiều trong Bảo tàng Việt Nam. Nào tầm vông, giáo mác, chông tre, những chiếc gùi tre đan, những ống tre tích nước, đựng nước… Tre đã cùng ta vượt bao gian khổ để đạt tới một tương lai với cuộc sống ấm no, giàu mạnh.

Vào thời bình, tre không còn là hung khí để đánh giặc nữa mà tre trở nên hiền hòa, hữu ích cho đời sống người dân hơn. Tre được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng, từ những vật dụng cỡ lớn như bàn ghế, giường chõng, cái cột, cái kèo, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh, cái thúng, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn, đựng chén bát và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) cho đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa,.. Cây tre hữu dụng và thân thiết với con người Việt Nam đến mức từ những vật dụng nhỏ nhất như cái tăm, đôi đũa tre. Trong mỗi bữa ăn ấm cúng của gia dình không thể thiếu bóng dáng của tre bởi tre đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết với mỗi người dân Việt Nam.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách nước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng : đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre, lồng đèn,…

Trong chiến tranh, tre không chỉ đơn thuần là vũ khí đánh giặc mà tre luôn sát cánh cùng người con Việt Nam, tre cung cấp lương thực trong những ngày đói rét. Cái hương vị đăng đắng, ngọt ngào của những bát măng rừng mãi là âm hưởng không thể nào quên trong trái tim của những người lính đã từng đi qua chiến tranh. Trong thời đại ngày nay, măng tre cũng luôn xuất hiện trong bữa ăn của các gia đình Việt Nam. Ta có thể gặp măng nấu canh, măng xào, măng luộc, cá kho với măng,… Lá tre, nước tre, tinh tre, mỗi loại đều có tính năng riêng nhưng thông thường, lá tre được sử dụng phổ biến hơn cả. Trong một bài thuốc chữa cảm dân gian, cái hương vị ngọt ngọt, man mát của lá tre là một hương vị không thể thiểu trong các nồi xông. Nó đã góp phần giúp cho người bệnh cảm thấy nhẹ nhàng, sảng khoái hơn.

Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích ( Nàng Út ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : Cây Tre Việt Nam, Viếng lăng Bác cũng có sự xuất hiện của cây tre… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn T’rưng, sáo, tiêu,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm. Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Trong những câu ca dao, dân ca, tục ngữ, người dân Việt Nam hay nói: tre già thì măng mọc để thể hiện sự kế tục của các thế hệ. Bên cạnh đó hình ảnh cây tre cũng tượng trưng cho hình ảnh cần cù, chịu thương chịu khó của con người Việt Nam ta “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước,tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp của cong người Việt Nam.

Những người đi xa quê hương thường nhớ về hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình ,..những hình ảnh quen thuộc của quê hương. Trong số ấy không thể thiếu lũy tre đầu làng. Đúng vậy, cây tre đã từ lâu trở thành một loài cây thân thuộc với người dân Việt Nam.

Bài văn mẫu Thuyết minh về cây tre Việt Nam

Không ai biết cây tre có từ bao giờ, chỉ biết rằng lũy tre đã đứng vững trãi như vậy từ hàng ngàn năm trước từ thuở vua Hùng dựng nước đến các cuộc khánh chiến chống xâm lăng. Tre đã cùng con người bảo vệ từng tấc đất của dân tộc. Tre vốn là loài cây thuộc họ thảo mộc, có rễ chùm, thân thẳng vững trãi. Những cây tre nhỏ thì cao khoảng từ hai đến ba mét còn những cây tre trưởng thành có thể cao hơn năm mét. Thân tre hình ống trụ dài, bên trong rỗng. Trên thân tre thường được chia thành các đốt dài bằng gang tay người trưởng thành. Ở mỗi đốt ấy đều có một mấu nối gọi là mắt tre, nơi mà các cành tre mọc ra. Cành tre nhỏ mảnh khảnh không to như càng cây bàng hay bằng lăng nhưng dại dẻo dai. Những cành cây mọc ra theo nhiều hướng khác nhau, cành này đan vào cành kia tạo thành một tấm áo giáp bảo vệ cho những búp măng nhỏ bé đang ẩn náu sâu trong lũy tre. Măng tre hình búp, khoác lên mình một màu xanh pha nâu của đất. Nhữn lớp áo của măng tre là từng bẹ lá úp vào nhau, đợi đến khi trưởng thành thì những bẹ lá ấy cứ tách dần ra cho măng tre mạnh mẽ vươn lên như một cây giáo đâm thẳng lên bầu trời. Lá tre nhỏ, thon và dẹp thuôn nhọc vè phía đầu và sắc. Những chiếc lá mới đầu có màu xanh nhưng khi già thì nó chuyển sang màu vàng. Tre cũng là loài thực vật có hoa nhưng chỉ nở một lần vào cuối đời vào thời gian nở là từ năm mươi đến sáu mươi năm. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất. Có thể thấy, tre là loài cây dễ sống, chúng thích nghi với mọi hoàn cành mọi loại đất dù là đất bạc màu hay đất chua, vì vậy mà đi đến bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam ta cũng thấy cái dáng cao cao nghiêng nghiêng của lũy tre.

Nói đến tre Việt Nam thì làm sao kể cho siết, từ Bắc vào Nam không biết có bao nhiêu là loài tre: tre Việt bắc, trúc Lam sơn,…Từ lâu tre đã trở thành người bạn của người nông dân đặc biệt là măng tre được coi như một món ăn đặc sản của người nông dân. Dưới bàn tay khéo léo của người phụ nữ, măng tre được chế biến thành nhiều món ăn như tre luộc, măng khô nấu canh, măng tươi…Lá tre khô còn là một vật liệu đốt dễ kiếm cho các bà các mẹ. Cành tre có gai nhọn thường được người nông dân xưa làm hàng rào quanh nhà. Đặc biệt nhất là thân tre, chúng trở thành những đòn gánh theo bước chân người nông dân ra đồng, thành cối xay giúp người nông dân xay lúa. Thân tre còn được vót mỏng thành những lạt mỏng dùng để gói bánh hay buộc mái nhà của người dân xưa hay được đôi bàn tay tài hoa của người nghệ nhân biến hóa thành những chiếc rổ giá hay hình thì cho cò, con vạc …những món đồ lưu niệm cho khách du lịch. Trong những ngày lễ Cổ truyền, thân tre còn được dùng làm cây nêu cầu may trong nhà. Những lũy tre còn đi sâu vào tâm trí của những đứa trẻ em vùng quê khi vào những buổi trưa hè nóng bức mà được ngồi dưới gốc tre mà hát những bài ca đồng quê, thả những con thuyền tre. Chính những kí ước đó là hành trang cho bất cứ người con xa quên sau này đều nhớ về quê hương. Không những vậy, hình cảnh dáng tre vững trãi đã đi vào những cuộc khánh chiến từ thời vua Hùng, Thánh Gióng lấy lũy tre làm vũ khí đanh tan quân thù, đến hai cuộc kháng chiến chống pháp và mĩ những dụng cụ làm từ tre: cày, cuốc… cũng được Bác nhắc đến trong bài kêu gọi toàn dân kháng chiến…Chính vì những điều đó mà cây tre từ lúc nào đã trở thành biểu tượng cho làng quê Việt Nam.

Thu Thủy

Bài Văn Mẫu Dựa Theo Lời Tâm Sự, Viết Truyện Ngắn Theo Ngôi Kể Thứ Nhấ

Đề bài: Dựa theo lời tâm sự, viết truyện ngắn theo ngôi kể thứ nhất kể về số phận và nỗi niềm của chú gà chọi bị bỏ rơi

Bài làm:

Chiều hôm nay, trời nắng gắt, tôi nằm dưới bụi chuối, ngẩn ngơ nhìn những áng mây trắng trôi bồng bềnh trên bầu trời, qua kẽ lá chuối đu đưa theo gió, tôi thấy lòng mình bâng khuâng buồn. Bao kỷ niệm của một ký ức vàng son sống lại trong tâm trí, khiến cho tôi, một chú gà chọi bị bỏ rơi càng cảm thấy lòng xót xa…

Tôi vốn được sinh ra từ dòng dõi nhà gà chọi có tiếng. Nghe các cụ gà già kể lại, ông nội và ông ngoại tôi đều là những tay đấu sĩ gà có tiếng ở xới, thuộc hàng trăm trận thì chỉ thua một vài trận, nên các vị chủ nhân rất thích, để nuôi nhằm phát triển một giống gà khỏe mạnh. Đến đời bố tôi, cũng là một chàng gà oai dũng. Nên tôi sinh ra đã khỏe mạnh, lớn nhanh như thổi, nhanh chóng được chủ nhân chọn làm một trong những chú gà thiện chiến, để dành chiến đấu trong xới khi làng mở hội. Cậu chủ đặt tên tôi là Tôn Ngộ Không, vì cậu khen tôi có lối ra đòn nhanh, mạnh và khéo, y như là chú khỉ có bảy hai phép biến hóa thần thông vậy. Tôi nhớ lại, những trận đấu vang dội mà cậu đưa tôi đi dự, tôi từng dùng nhiều thế võ gia truyền để đánh bại đối thủ một cách vô cùng vẻ vang. Kết quả là tôi và cậu chủ nhận nhiều huy chương vàng qua mấy lần hội làng. Cái tên Tôn Ngộ Không vang danh khắp nơi trong tỉnh, các cô bác gia cầm đều nghe tới và ngợi khen tôi không ngớt.

Ấy thế mà, bây giờ tôi lại thành ra như thế này, mang thân phận một con gà chọi bị bỏ rơi, phải lê la sống qua ngày tháng ở cái sân nhỏ này, cùng mấy cậu trống choai hay khoe tiếng gáy, và mấy chị gà mái sồ sề nhiều chuyện, hay liếc nhìn tôi và bảo thầm thì với nhau: “Gớm, ham đấu đá lắm, bây giờ thành ra như thế…”. Ấy là do tôi đã bị thương nặng trong một lần đi đấu với đấu sĩ gà có tên là Ô Điên từ Hà Nội vào. Quả là một tay đấu thủ đáng sợ, vì anh ta có sức vóc cao và kinh nghiệm chiến đấu rất tốt. Nhưng tôi lại chủ quan, khinh đối thủ, nên hậu quả là bị đánh cho tơi tả, bị thương nặng đến nỗi bây giờ chân tôi vẫn còn đi cà nhắc. Sau đó, cậu chủ đưa tôi vào sân gà vịt, thở dài nhìn tôi rồi bảo: “Tiếc cho mày quá, Tôn Ngộ Không à”. Từ đó, cậu không nuôi dưỡng và chăm sóc tôi như trước, mà tôi đã trở thành một chú gà thường, ăn và sống trong sân cùng với tất cả bọn gà khác, may mà không bị đem ra làm thịt, có lẽ vì chủ nhân còn xót thương và nghĩ đến chút công lao.

Nhưng tôi buồn lắm, ngày dài trôi đi, biết rằng mình không bao giờ còn có thể làm một đấu sĩ trên xới, tôi não nề chua xót cho thân phận mình. Tôi nhớ bàn tay cậu chủ ngày ngày chải lông, bóp thuốc để làn da tôi dày dạn, nhớ cả lời động viên nhỏ nhẹ của cậu trước mỗi trận đấu. Rồi tiếng hò la vang dội khi tôi say trận xông vào đối thủ, những lời ngợi khen khi tôi có thế võ hay, tất cả vẫn vang vọng đâu đây. Đột nhiên tôi nghĩ đến lời thơ mà cậu chủ từng đọc trong một lúc cao hứng, nghe nói là tâm sự của một con hổ bị nhốt trong cũi sắt: “Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt. ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”. Tâm sự của tôi bây giờ có gì khác như thế đâu. Ôi chao, buồn…

Và như vậy đó, các bạn ạ, tôi là một chú gà chọi bị bỏ rơi với bao tâm sự trăn trở. Tôi đã buồn qua nhiều ngày tháng. Nhưng từ hôm ấy, tôi đã hiểu ra rằng: sống ở trên đời thì không thể cứ bấu víu mãi vào hào quang của quá khứ, mà bạn phải không ngừng vươn lên, chỉ có như vậy, bạn mới vượt qua nghịch cảnh và tìm thấy ý nghĩa thật sự trong cuộc sống của minh.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Văn Mẫu Tả Chú Gà Chọi, Văn Mẫu Hay, Chọn Lọc trên website Raffles-design.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!